Tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng đầu năm 2021 tỉnh Ninh Thuận
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung vào chăm
sóc cây trồng vụ mùa. Tình hình nước tưới thuận lợi làm tăng diện tích gieo trồng
lúa so với cùng kỳ năm trước. Chăn nuôi gia súc chăn thả có chiều hướng giảm do
đồng cỏ tự nhiên giảm; chăn nuôi lợn tăng do kiểm soát dịch
bệnh tốt; chăn nuôi gia cầm phát triển ổn định. Sản xuất
lâm nghiệp bắt đầu công tác trồng rừng tập trung của năm. Sản lượng thủy sản giảm
do ảnh hưởng của mùa mưa bão và dịch Covid-19 làm nhu cầu tiêu thụ sản phẩm giảm.
a/ Nông nghiệp
*
Trồng trọt: Vụ mùa năm
nay, diện tích trồng lúa tăng mạnh do nguồn nước tưới thuận lợi, những cánh đồng
hai vụ quay lại sản xuất vụ ba cuối năm; nhiều diện tích rau, đậu được chuyển
sang trồng lúa trở lại. Tính đến 15/10/2021, cả tỉnh gieo cấy được 14.461,6 ha lúa mùa, tăng
51,1% so cùng kỳ năm 2020, trong đó huyện Ninh Phước gieo diện tích cao nhất với
4.811 ha, tăng 196,6% (tăng 3.188,8 ha); huyện Thuận Nam gieo DT thấp nhất 530
ha, giảm 14% (giảm 86,6 ha).
Tiến độ gieo trồng hoa màu vụ đông đạt thấp do chuyển đổi cơ cấu
cây trồng từ rau màu sang lúa. Tính đến trung tuần tháng 10, cả tỉnh gieo trồng
được 10.251,4 ha ngô, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm trước; 214,7 ha khoai lang,
tăng 1,4%; 855,5 ha lạc, tăng 10,7%; 12.559,4 ha rau, đậu các loại, tăng 8,9%. Nhìn chung, rau màu các loại lại giảm do một phần quay lại
canh tác lúa ba vụ/ năm do thuận nguồn nước, phần khác số sâu bệnh gây hại đối
với rau ăn lá, ruồi vàng đục quả xuất hiện nhiều hơn; phân bón và thuốc trừ sâu
tăng giá mạnh cũng là nguyên nhân gây trở ngại cho hộ trồng rau.
* Chăn nuôi: Ước tính trong tháng Mười, tổng số trâu của cả tỉnh giảm
2,1% so với cùng thời điểm năm trước; tổng số bò giảm 2%; tổng số heo tăng nhẹ 0,6%; tổng số dê, cừu giảm 5,8%; tổng số gia cầm tăng 1,8%. Trong tháng, các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm
như: Dịch tả lợn Châu Phi, Lở mồm long móng, Cúm gia cầm, Tai xanh heo, bệnh Dại
trên động vật cơ bản được kiểm soát tốt không xảy ra, chỉ xảy ra rải rác bệnh
truyền nhiễm thông thường như Ecoli trên heo, Niu-cát-xơn trên gà ở một số địa
phương, bệnh được phát hiện sớm và điều trị kịp thời không lây lan. Bệnh Viêm
da nổi cục trên trâu, bò lũy kế đến đầu tháng đã có 4.649 con bệnh; trong đó chết
tiêu hủy 311 con, khỏi bệnh 3.392 con.
b/ Lâm nghiệp
Tình hình lâm nghiệp của tỉnh trong tháng Mười tập
trung chủ yếu vào công tác trồng rừng tập trung. Diện tích rừng trồng mới tập trung trong tháng ước tính đạt 209 ha cây lâm nghiệp, đạt 70% kế hoạch năm,
bằng 50,5% so cùng kỳ năm
trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 129,7 nghìn cây, giảm 70,1%; sản lượng
củi khai thác đạt 1,3 nghìn ste, tăng 4,8%; sản lượng gỗ khai thác đạt 90 m3,
tăng 80% chủ yếu khai thác từ rừng trồng của hộ cá thể, rừng đến tuổi
thu hoạch.
Tính chung 10 tháng, diện tích rừng trồng mới
tập trung ước tính đạt 209 ha
cây lâm nghiệp, bằng 50,5% so cùng kỳ năm
trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 201,4 nghìn
cây, giảm 63,2%; sản lượng gỗ khai thác đạt 1.960 m3, tăng 85,3%; sản
lượng củi khai thác đạt 16,4 nghìn ste, tăng 7,5%.
Diện tích rừng bị thiệt hại trong tháng Mười
là 1,3 ha, giảm 3,9% so với cùng kỳ năm trước, toàn bộ là diện tích rừng bị chặt,
phá. Tính chung 10 tháng, diện tích rừng bị thiệt hại là 28 ha, tăng 2,77 lần
so với cùng kỳ năm trước, toàn bộ là diện tích rừng bị chặt, phá.
c/ Thuỷ sản
Trong
tháng Mười, bão, áp thấp
nhiệt đới, và tình hình dịch bệnh Covid-19 đã ảnh hưởng tới hoạt động sản
xuất thủy sản. Sản lượng thủy sản trong
tháng ước đạt 6.094,9 tấn, giảm 5% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt
4.649,7 tấn, giảm 4,2%; tôm đạt 544,7 tấn, giảm 21,2%; thủy sản khác đạt 900,5
tấn, tăng 3,1%.
Lũy kế 10 tháng năm
2021, sản lượng thủy sản ước đạt 125.886,7 tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm
trước, mức tăng trưởng thấp nhất và có xu hướng tăng chậm dần trong các năm
2017-2021 (năm 2017 tăng 23,6%; năm 2018
tăng 9,3%; năm 2019 tăng 4,4%; năm 2020 tăng 3,7%; năm 2021 tăng 3,3%);
trong đó sản lượng nuôi trồng đạt 7.737 tấn, giảm 7,1%; sản lượng khai thác đạt
118.149,7 tấn, tăng 4,1%. Khai thác biển vẫn là ngành thủy sản chủ lực của tỉnh
với tỷ trọng 93,8% tổng sản lượng thủy sản.
Sản lượng giống thủy sản
trong tháng Mười ước đạt 2,72 tỷ con, giảm 5,4% so cùng kỳ năm 2020, do ảnh hưởng tình hình dịch bệnh
Covid làm thị trường miền Tây Nam Bộ nhu cầu tôm giống giảm. Lũy kế 10 tháng
năm 2021 số lượng giống thủy sản sản xuất ước đạt 34,3 tỷ con, giảm 2,7% so với
cùng kỳ 2020.
2. Sản xuất công nghiệp
Tình
hình dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh vẫn diễn biến phức tạp, nhưng
đang từng bước được kiểm soát. Sản xuất công nghiệp tháng 10/2021 tiếp tục khởi
sắc, đặc biệt là ngành sản xuất và phân phối điện với mức tăng 24% so với cùng
kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 29,74%.
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP)
tháng 10/2021 ước tăng 2,31% so với tháng trước và tăng 13,5% so với cùng kỳ
năm trước, đà tăng trưởng giảm dần trong 3 năm gần đây (năm 2019 tăng 19,45%; năm 2020 tăng 15,42%; năm 2021
tăng 13,50%), trong đó sản xuất và phân phối điện tăng 24%; cung cấp nước và xử lý
rác thải, nước thải tăng 1,31%; chế biến, chế tạo giảm 1,64%; ngành khai khoáng
giảm 30,15%.
Tính
chung 10 tháng năm 2021, IIP ước tính tăng 29,74% so với cùng kỳ năm trước, thấp
hơn so với mức tăng 44,3% của cùng kỳ năm 2020. Trong đó, ngành sản xuất và
phân phối điện tăng 53,36%, là yếu tố chủ yếu
làm tăng chỉ số chung toàn ngành; chế biến, chế tạo tăng 1,41%; cung cấp nước,
hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,93%; riêng ngành khai
khoáng giảm 30,6%.
Một
số sản phẩm công nghiệp chủ yếu trong 10 tháng giảm sâu hoặc tăng thấp so với
cùng kỳ năm trước: khai thác muối biển giảm
46,4%; phân vi sinh giảm 22,5%; bia đóng lon giảm 16,7%; xi măng Portland đen
giảm 13,1%; hạt điều khô giảm 10,9%; tinh bột sắn giảm 3,5%. Bên cạnh đó, một số
sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng cao so với cùng kỳ năm trước: điện
sản xuất tăng 47,1% (trong đó: điện mặt trời
tăng 61,2%) tiếp tục là nhân tố chủ lực làm tăng
trưởng ngành Công nghiệp; đường RS tăng 68,7%; tôm đông lạnh tăng 28,5%; thạch
nha đam tăng 18,8%.
3. Tình hình đăng ký doanh
nghiệp
Tình hình dịch
Covid-19 bùng phát mạnh trên cả nước tiếp tục ảnh hưởng lớn đến hoạt động doanh
nghiệp. Tính đến ngày 16/10/2021, có 302 doanh nghiệp thành lập mới, giảm 47%
so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký mới giảm 44,2%; số doanh nghiệp đăng ký tạm
ngừng hoạt động tăng 56,7%. Tuy nhiên số doanh nghiệp giải thể giảm 4,7% và số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 31,7%, cho thấy
tín hiệu tích cực của các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và các biện pháp
phòng, chống dịch có hiệu quả.
Từ ngày 01/10/2021 đến ngày 16/10/2021, có 12 doanh nghiệp thành lập
mới/83,5 tỷ đồng, bằng 42,9% số doanh nghiệp (12/28 DN) và số vốn đăng ký bằng
38,2% so cùng kỳ; nâng lũy kế đến ngày 16/10/2021, có 302 doanh nghiệp thành lập
mới/2.453 tỷ đồng, giảm 47% số doanh nghiệp (302/570DN) và số vốn đăng ký giảm
44,2% so cùng kỳ. Tổng số doanh nghiệp đang hoạt động đến ngày 15/10/2021, có
3.774 doanh nghiệp/74.483 tỷ đồng. Tuy số doanh nghiệp giảm, nhưng vốn đăng ký
bổ sung vốn tăng cao, trên 4.041 tỷ đồng, tăng 10,3% so cùng kỳ (109/132 DN).
Từ ngày 01/08/2021 đến ngày 21/8/2021, có 09 doanh nghiệp thành lập
mới/146 tỷ đồng, bằng 15,8% số doanh nghiệp (09/57 DN) và số vốn đăng ký bằng
41,1% so cùng kỳ; nâng tổng số đến ngày 21/8/2021, có 251 doanh nghiệp thành lập
mới/2.185 tỷ đồng, giảm 46,6% số doanh nghiệp và số vốn đăng ký giảm 34,5% so
cùng kỳ. Tổng số doanh nghiệp đang hoạt động đến ngày 21/8/2021, có 3.730 doanh
nghiệp/73.916 tỷ đồng.
Lũy kế 8 tháng, số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 31,7% so cùng kỳ (83/63 DN); có 61 doanh nghiệp giải thể, giảm 4,7% so
cùng kỳ (61/64 DN); có 152 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, tăng 56,7% so cùng
kỳ (152/97 DN).
4. Đầu tư
Gần hết năm,
các Sở, ban, ngành đang nỗ lực đẩy nhanh giải ngân vốn
đầu tư công làm vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Mười ước
tính tăng 39,4% so với tháng trước, mức tăng trưởng cao nhất trong các năm 2016-2021; nhưng vẫn
giảm 6,4% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng trưởng thấp nhất trong các năm
2017-2021. Tính chung 10 tháng, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước
đạt 69% kế hoạch năm và giảm 11,8% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng trưởng thấp
nhất giai đoạn 2017-2021.
Vốn đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương
quản lý tháng Mười ước đạt 214,5 tỷ đồng, giảm 6,4% so với cùng kỳ năm trước,
trong đó vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh: 129,8 tỷ đồng, giảm 32,5%; vốn ngân
sách nhà nước cấp huyện: 84,7 tỷ đồng, tăng 129,4%.
Tính chung 10 tháng, vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân
sách Nhà nước do địa phương quản lý ước đạt 1.299,1 tỷ đồng, giảm 11,8% so với
cùng kỳ năm trước, trong đó vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh: 902 tỷ đồng, giảm
16,4%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện: 395,2 tỷ đồng, tăng 1,8%.
5. Thu, chi ngân sách Nhà nước
Dù dịch bệnh Covid-19 vẫn
diễn biến phức tạp trên địa bàn tỉnh, nhưng đang dần được kiểm soát chủ động, các hoạt động sản
xuất kinh doanh của nền kinh tế từng bước trở lại hoạt động trong trạng thái
bình thường mới, và việc kiểm soát tốt dịch Covid-19 trong 6 tháng đầu năm làm tình
hình thu ngân sách Nhà nước 10 tháng của tỉnh nhìn chung khả quan. Chi ngân
sách Nhà nước tập trung bảo đảm các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh, y tế và quản lý Nhà nước.
Thu ngân sách Nhà nước tháng Mười ước đạt
257,1 tỷ đồng, trong đó: thu nội địa 200 tỷ đồng, thu từ hoạt động xuất, nhập
khẩu 57,1 tỷ đồng. Nâng tổng thu ngân sách Nhà nước 10 tháng năm 2021 đạt
3.549,5 tỷ đồng, bằng 91% dự toán năm, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó: thu nội địa (không kể thu dầu
thô) đạt 2.648,5 tỷ đồng, bằng 98,1% dự toán năm và tăng 10,6%; thu từ hoạt
động xuất, nhập khẩu 901 tỷ đồng, bằng 75,1% và giảm 14,1%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước (không tính chi từ nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ) đạt 5.492,5 tỷ đồng, đạt
98% dự toán năm.
6. Ngân hàng
Hoạt động tiền tệ, ngân hàng trong
tháng Mười trên địa bàn tỉnh tiếp tục ổn định và an toàn. Huy động vốn từ tổ chức
kinh tế, dân cư và dư nợ tín dụng tiếp tục có sự tăng trưởng so với tháng trước
và cuối năm 2020. Tỷ lệ nợ xấu vẫn trong tầm kiểm soát (dưới 2%) nhưng có sự
gia tăng cả về giá trị và tỷ lệ so với đầu năm, tiềm ẩn rủi ro phát sinh cao.
Ước đến cuối tháng 10/2021:
Nguồn vốn huy động trên địa bàn ước đạt 18.600 tỷ đồng, tăng 204 tỷ
đồng (+1,11%) so với tháng trước, tăng 1.822 tỷ đồng (+10,86%) so với cuối năm
2020, bằng 98,9% kế hoạch năm 2021.
Tổng dư nợ tín dụng ước đạt 33.000 tỷ đồng, tăng 373 tỷ
đồng (+1,14%) so với tháng trước, tăng 2.621 tỷ đồng (+8,63%) so với cuối năm
2020, bằng 94,4% kế hoạch năm 2021.
Dư nợ xấu trên địa bàn là 560 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 1,7% so với tổng dư nợ, giảm 0,01% so với tỷ lệ nợ xấu
cuối tháng trước (số tuyệt đối tăng 2 tỷ đồng) và tăng 1,06% so với tỷ lệ nợ xấu
cuối năm 2020 (số tuyệt đối tăng 365,2 tỷ đồng).
7.
Thương mại, giá cả, dịch vụ
a/ Bán
lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Hoạt động thương
mại và dịch vụ tháng Mười tiếp tục xu hướng tăng, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch
vụ tiêu dùng tháng 10/2021 tăng 18,6% so với tháng trước, mức tăng trưởng
cao nhất trong các năm 2016-2021; nhưng giảm 9,1% so với cùng kỳ năm trước,
mức tăng trưởng
thấp nhất trong các năm 2017-2021. Tính chung 10 tháng năm 2021, tổng mức
bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giảm 0,4%, mức tăng trưởng thấp
nhất trong các năm 2017-2021.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Mười ước
đạt 1.930,8 tỷ đồng, tăng 18,6% so với tháng trước
và giảm 9,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 1.646,7 tỷ đồng, tăng 14% và giảm 0,8%; doanh thu
dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 164,5 tỷ đồng, tăng 54,1% và giảm 43,4%; doanh thu du lịch lữ hành không phát
sinh; doanh thu dịch vụ khác đạt 119,6
tỷ đồng, tăng 58,1% và giảm 31,3%.
Tính chung 10 tháng, tổng mức
bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 19.471,6
tỷ đồng, giảm 0,4% so với cùng kỳ năm
trước.
b/ Chỉ
số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Chỉ số giá vàng tăng nhẹ
0,04% so với tháng trước và giảm 3,32% so cùng kỳ năm trước; giá vàng 9999 hiện
ở mức 5.130.000 đồng/chỉ. Chỉ số giá đô la Mỹ tăng 0,92% so với tháng trước và
giảm 0,17% so cùng kỳ năm trước; giá đô la mỹ hiện ở mức 23.260 đồng/USD.
c/ Vận tải hành khách và hàng hóa
Việc dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp tiếp tục ảnh
hưởng đến hoạt động vận tải đường bộ của tỉnh, nhất là vận tải hành khách. Tính chung 10 tháng năm 2021, vận chuyển
hành khách giảm 21,0% và vận chuyển hàng hóa giảm 7,8% so với cùng kỳ năm trước.
Vận tải hành
khách trong tháng Mười ước đạt 0,03 triệu lượt hành khách vận chuyển, tăng 6,3%
so với tháng trước và luân chuyển 2,5 triệu lượt hành khách.km tăng 4,3%. Tính
chung 10 tháng, vận tải hành khách đạt 2,35 triệu lượt hành
khách vận chuyển, giảm 40,9% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 176,26 triệu
lượt hành khách.km, giảm 42,5%. Toàn bộ
là hoạt động vận tải đường bộ trong nước.
Vận tải hàng hóa
trong tháng ước đạt 0,55 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 16,8% so với tháng
trước và luân chuyển 39,66 triệu tấn.km, tăng 16,5%. Lũy kế 10 tháng, vận tải
hàng hóa đạt 5,44 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, giảm 7,8% so với cùng kỳ năm
trước và luân chuyển 397,65 triệu tấn.km, giảm 8,4%. Toàn bộ là hoạt động vận tải đường bộ trong nước.
8. Một
số vấn đề xã hội
a/ Lao động, việc làm
Công tác tư vấn giới thiệu việc làm tiếp tục được triển khai đầy
đủ và kịp thời. Trong tháng Mười, đã tư vấn giới thiệu việc làm cho
1.049 lượt người, nâng tổng số người được tư vấn, giới thiệu việc làm, hỗ
trợ học nghề cho người tham gia bảo hiểm thất nghiệp trong 10 tháng năm 2021 là
15.664/15.000 lượt người, đạt tỷ lệ 104,4%. Trong tháng kết nối việc làm được 17 người, nâng tỷ lệ lao động tìm được việc
làm qua Trung tâm Dịch vụ việc làm đến tháng 10/2021 đạt 41,5% (415/1.000 người). Số người lao động nộp hồ
sơ đề nghị hưởng bảo hiểm thất nghiệp là 156 hồ sơ, số người có quyết định hưởng
trợ cấp thất nghiệp hàng tháng 206 hồ sơ với kinh phí chi trả là 3,39 tỷ đồng,
nâng tổng số hồ sơ có Quyết định hưởng bảo hiểm thất nghiệp 10 tháng đầu năm
lên 2.847 người với số tiền chi: 42,87 tỷ đồng.
b/ Đời sống dân cư, công tác an sinh xã hội
Trong tháng Mười, tỉnh đã
kịp thời tham mưu giải quyết chế độ chính sách
cho các đối tượng Người có công và các đối tượng bảo trợ xã hội, đảm bảo các
chính sách an sinh xã hội thực hiện được đầy đủ, đúng đối tượng:
Công
tác Người có công: Thực hiện tốt các hồ sơ giải quyết chính sách đối với
lĩnh vực Người có công, bao gồm 38 hồ sơ.
Công
tác Giảm nghèo, Bảo trợ xã hội: Tổ chức đón 194 công dân là phụ nữ mang
thai sắp sinh, phụ nữ đang nuôi con nhỏ dưới 03 tuổi và người đi khám, điều trị
bệnh bị kẹt tại thành phố Hồ Chí Minh trở về tỉnh (đợt 1). Thực hiện tốt công
tác chăm sóc, nuôi dưỡng đối tượng bảo trợ xã hội tại Trung tâm công tác xã hội
tỉnh, tổng số đối tượng hiện đang quản lý và nuôi dưỡng tại Trung tâm Công tác
xã hội tỉnh là: 237/79 nữ. Trong đó: Người cao tuổi 13/10 nữ; trẻ mồ côi 45/25
nữ; người tâm thần 179/44 nữ (tâm thần đặc biệt nặng: 71/18 nữ, tâm thần nặng:
72/19 nữ, tâm thần phục hồi/thuyên giảm: 34/07 nữ, 02 đối tượng bảo vệ khẩn cấp)
.
c/ Giáo dục
Tình
hình năm học 2021-2022: Toàn tỉnh có 310 cơ sở giáo dục, đào tạo (trong đó có
28 trường ngoài công lập); bao gồm 90 trường cấp mầm non (trong đó có 26 trường
ngoài công lập), 133 trường tiểu học, 47 trường THCS, 15 trường THPT, 11 trường
liên cấp TH-THCS, 04 trường liên cấp THCS-THPT, 02 trường liên cấp TH-THCS-THPT
(ngoài công lập), 05 trường Dân tộc nội trú, 01 trường chuyên, 02 Trung tâm. So
với năm học 2020-2021, giảm 02 cơ sở giáo dục, đào tạo theo đề án, kế hoạch rà
soát sắp xếp mạng lưới trường lớp của UBND tỉnh. Tổng số học sinh toàn tỉnh đầu
năm học 2021-2022 là 146.817 học sinh (Trong đó: cấp Mầm non: 27.951 trẻ; Tiểu
học: 62.151 học sinh; Trung học cơ sở: 38.826 học sinh; Trung học phổ thông:
17.889 học sinh.
d/ Chăm sóc sức khỏe cộng đồng
Phòng chống dịch Covid-19: Tính từ đầu năm đến 18h00 ngày 23/10/2021,
Ninh Thuận có 1.183 người mắc Covid-19. Trong đó, đợt dịch thứ 4 tính từ ngày
03/7/2021, phát hiện 1.174 người mắc bệnh; có 1.008 người được điều trị khỏi xuất
viện; 29 người tử vong do tuổi cao, mắc bệnh nền. Tổng số người đã được tiêm
vaccine là 418.275 người, trong đó số người đã tiêm đủ 2 mũi là 49.794 người; số
người đã tiêm được 1 mũi là 368.481 người. (Nguồn:
Báo Ninh Thuận)
Các bệnh truyền nhiễm lưu
hành: Phát hiện 235 trường hợp mắc bệnh Sốt xuất huyết, giảm
51,4% so với năm 2020 (484 trường hợp); phát hiện 85 trường hợp mắc bệnh Tay
chân miệng, giảm 67,7% so với năm 2020 (263 trường hợp). Chưa có trường hợp tử
vong. Các bệnh truyền nhiễm khác mắc tản phát như bệnh lỵ (trực tràng, Amibe)
140 trường hợp, tiêu chảy 1.118 trường hợp, thủy đậu 50 trường hợp, thương hàn
05 trường hợp, quai bị 08 trường hợp, cúm 4.776 trường hợp, tất cả đều giảm so
với năm 2020. Không ghi nhận trường hợp mắc bạch hầu, tả, viêm não, các loại
Cúm A, bệnh do vi rút Zika trên địa bàn tỉnh .
đ/ Văn hóa, thể
thao
Lĩnh vực Văn hóa: Hoàn
thành nội dung lý lịch di tích, gửi lấy ý kiến góp ý về công tác lập hồ sơ
trình UBND tỉnh quyết định xếp hạng di tích cấp tỉnh Miếu Thuận Khánh, xã Phước
Thuận, huyện Ninh Phước. Do tình hình dịch Covid-19 phức tạp, thực hiện chỉ đạo
của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Lễ hội Katê năm 2021 diễn ra từ ngày 04/10 - 07/10/2021
không tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao phục vụ đồng bào. Sưu tầm
10 hình ảnh Anh hùng lực lượng Vũ trang Nhân dân tỉnh Ninh Thuận và nông cụ, đồ
dùng sinh hoạt Chăm; thực hiện trưng bày “Nghệ thuật điêu khắc đá của người
Chăm tỉnh Ninh Thuận”.
Lĩnh vực
thể dục, thể thao: Do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên tiếp tục dừng
tổ chức các hoạt động thể thao và tham gia các giải thi đấu theo kế hoạch. Các
Đội thể thao thành tích cao tiếp tục tập luyện tại nhà, chuẩn bị chuyên môn
tham dự các giải thể thao toàn quốc, khu vực mở rộng khi có thông báo mới.
Lĩnh
vực du lịch: Do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, từ ngày 12/5 đến
nay, Ninh Thuận đã tạm dừng đón khách tham quan du lịch và chủ yếu phục vụ khách
công tác, các chuyên gia và người dân đến cách ly tại các cơ sở lưu trú do tiếp xúc bệnh
nhân Covid-19.
e/ Tai nạn giao
thông
Trong
tháng (từ ngày 15/9 đến 14/10/2021), xảy
ra 10 vụ tai nạn giao thông, làm 04 người chết, có 10 người bị thương. So với tháng trước, số vụ không tăng
không giảm; số người chết tăng 02 người (+100%); số người
bị thương tăng 03 người (+42,9%). So với cùng kỳ năm trước, số vụ giảm 05 vụ
(-33,3%); số người chết tăng 01 người (+33,3%); số người bị thương giảm 07 người (-41,2%).
Tính
chung 10 tháng, tai nạn giao thông giảm đều cả ba phương diện: xảy ra 114 vụ,
làm 46 người chết, 103 người bị thương. So
với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 12 vụ (-9,5%); số người
chết giảm 04 người (-8%); số người bị thương giảm 19 người (-15,6%). Bình quân
2,6 ngày xảy ra 01 vụ tai nạn giao thông.
g/ Tình hình cháy, nổ
Trong tháng xảy ra 01 vụ
cháy, không thiệt hại về
người, tài sản thiệt hại trị giá khoảng hơn 200 triệu đồng. Lũy kế
10 tháng xảy ra 05 vụ cháy, giảm 08 vụ (-61,5%) so cùng kỳ năm trước; không thiệt hại về người, bằng
cùng kỳ; thiệt hại tài sản 401,6 triệu đồng, giảm 96,2%.
h/ Thiệt hại do thiên tai
Trong tháng Mười
không xảy ra thiên tai./.
*Đính kèm file: “Báo cáo tình hình kinh tế-xã hộitháng 10 và 10 tháng năm 2021”
Nguyễn
Hồng Thiện
(Phòng thống kê Tổng hợp)