06-05-2021
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Thuận tháng 4 năm 2021
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản
xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tháng 4/2021 bước vào giai đoạn thu hoạch đại
trà vụ Đông xuân, năng suất nhìn chung đạt tốt hơn cùng kỳ năm trước; chăn nuôi
dê, cừu giảm do đồng cỏ tự nhiên ngày
càng ít; sản lượng thủy sản trong tháng giảm so với cùng
kỳ năm trước do nguồn cá nổi không nhiều.
a/ Nông nghiệp
Trong tháng Tư, sản xuất nông nghiệp tập trung
vào thu hoạch cây trồng vụ Đông xuân. Lúa Đông xuân sớm đến ngày
15/4/2021 đã thu hoạch được 8.948 ha/ 17.388,7 ha, chiếm 51,4% diện tích lúa gieo
cấy; năng suất thu hoạch sơ bộ đạt 69,6tạ/ ha, tăng 1,4 tạ/ha so Đông xuân năm
trước. So cùng kỳ, diện tích lúa thu hoạch sớm tăng 75%, dự tính thu hoạch dứt
điểm đầu tháng tới. Năng suất lúa Đông xuân năm nay đạt cao hơn so năm trước do
thuận lợi ở khâu xuống giống đồng loạt, sản xuất tập trung với giống
chất lượng, nước tưới đầy đủ, tránh sâu rầy phát triền, sâu bệnh giảm,...
Diện tích ngô thu hoạch 2.020/ 2.734,3 ha, chiếm
73,9% diện tích gieo cấy, tăng 18,3% so cùng thời điểm năm trước kỳ, sản lượng
ngô đã thu hoạch 10,7 nghìn tấn, tăng 10,8% do diện tích ngô lai năng suất cao
trong tháng chưa thu nhiều. Một số diện tích rau, đậu các loại diện tích thu hoạch
trong tháng đạt 3.845/ 4.046,6 ha, đạt 95% diện tích gieo trồng.
Tình hình chăn nuôi nhìn chung ổn định. Các
bệnh nguy hiểm trên động vật như Dịch tả lợn châu Phi, Lở mồm long móng,
Cúm gia cầm, Tai xanh heo, bệnh Dại được kiểm soát tốt nên các hộ nuôi đang
thực hiện tái đàn. Ước tính tháng Tư, đàn trâu tăng nhẹ 0,1% so
với cùng thời điểm năm trước; đàn bò tăng 0,2%; đàn
heo tăng 5,4% do dịch bệnh ít, lượng tiêu thụ tăng lên; đàn dê, cừu giảm 6,2%
do khô hạn hàng năm cộng với đất đai dành cho các dự án điện năng lượng mặt trời,
điện gió ngày càng nhiều làm đồng cỏ tự nhiên ít đi, thức ăn và nước uống cho
đàn dê, cừu khó khăn; đàn gia cầm tăng 7,2%.
b/ Lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp của tỉnh
trong tháng chủ yếu tập trung vào công tác chăm sóc bảo vệ rừng trên diện
tích 1.072,56 ha (năm 2 là 671,06 ha, năm 3 trở lên 401,5 ha), giảm 2,6% so
cùng kỳ. Khai thác gỗ trong tháng chủ yếu thuộc hộ cá thể ước đạt 175 m3,
tăng 1,7% so cùng kỳ; củi khai thác 890 ster, tăng 0,6% chủ yếu thu nhặt và
khai thác từ cây chết rừng tự nhiên. Từ đầu năm đến nay chưa xảy ra cháy rừng. Diện
tích rừng bị chặt, phá trong tháng là 1,3 ha. Tính chung 4 tháng đầu năm, cả tỉnh
có 8 ha rừng bị thiệt hại, gấp 8,8 lần so với cùng kỳ năm trước, toàn bộ đều là
rừng bị chặt, phá. Số cây lâm nghiệp trồng phân tán lũy kế bốn tháng là 4,26
nghìn cây, gấp 4,8 lần.
c/
Thuỷ sản
Trong tháng Tư, sản lượng thủy sản cả tỉnh ước đạt 10.121,4 tấn,
giảm 3,8% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 9.435,9 tấn, giảm 4,2%; tôm
đạt 234,3 tấn, giảm 4%; thủy sản khác đạt 451,2 tấn, tăng 5,6%.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, sản lượng thủy
sản ước đạt 33.560 tấn, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng
nuôi trồng đạt 1.739,4 tấn, tăng 5,5%; sản lượng khai thác đạt 31.820,6 tấn,
tăng 5,1% (chủ yếu là sản lượng thủy sản khai thác biển).
Sản
lượng giống thủy sản sản xuất tháng Tư ước đạt 5.560 triệu con, giảm 9,2% so
cùng kỳ năm trước; trong đó tôm giống ước đạt 5.520 triệu con, giảm 9,5%. Tính
chung 4 tháng đầu năm, lượng giống sản xuất 17.300 triệu con, tăng 6,4%; trong
đó tôm giống ước đạt 17.200 triệu con, tăng 6,2%.
2. Sản
xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp trong tháng Tư tiếp tục đà tăng
trường cao do không chịu nhiều ảnh hưởng từ dịch Covid-19, ước tính chỉ số sản
xuất công nghiệp tăng mạnh 46,73% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng
đầu năm 2021, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 48,86% so với cùng kỳ
năm trước, mức tăng cao trong nhiều năm qua.
Chỉ số sản xuất toàn
ngành công nghiệp (IIP) tháng 4/2021 ước giảm 5,32% so với tháng trước và tăng
43,76% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 8,47%; ngành
chế biến, chế tạo tăng 17,42%; sản xuất và phân phối điện tăng 64,62%; cung cấp
nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,22%.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, IIP ước tính
tăng 48,86% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng
15,48%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 79,32%; ngành cung cấp nước, hoạt
động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,01%; riêng ngành khai khoáng
giảm 29,26%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 4 tháng đầu
năm 2021 tăng so với cùng kỳ năm trước: Tinh bột mỳ tăng 166,5%; Điện
mặt trời tăng 78,0%; Điện gió
tăng 24,62%; Tôm đông lạnh tăng 17,65%;
Bia đóng lon tăng 2,0%; Thạch nha đam tăng 1,6%.
Một số sản phẩm giảm: Xi măng giảm 21,13%; Muối biển khai thác ước đạt 55,4
ngàn tấn, giảm 16,7%; Hạt điều khô giảm 5,36%.
Riêng Sản xuất đường tạm ngừng sản xuất do hết mía nguyên liệu.
3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Trong 4 tháng đầu năm 2021, có 133 doanh nghiệp đăng
ký thành lập mới, giảm 13,6% so với cùng kỳ năm 2020 và 46 doanh nghiệp quay trở
lại hoạt động, tăng 76,9%. Đáng chú ý là trong bốn tháng có 61 doanh nghiệp
thông báo giải thể, tăng 177,3%; có 97 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, tăng
67,2% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 4 tháng đầu năm, cả tỉnh có 133 DN
thành lập mới, giảm 13,6% so với cùng kỳ năm trước; trong đó loại hình DN Công
ty trách nhiệm hữu hạn có 117 DN, chiếm 88% số DN thành lập mới, giảm 12,7%. Số
vốn đăng ký mới là 1.296 tỷ đồng, tăng 10,1%. Vốn đăng ký bình quân một doanh
nghiệp thành lập mới đạt 974,5 tỷ đồng, tăng 27,5% so cùng kỳ năm trước. Cả tỉnh
có 46 DN hoạt động trở lại, tăng 76,9%; 97 DN tạm ngừng kinh doanh, tăng 67,2%;
61 DN thông báo giải thể, tăng 177,3%.
4. Đầu tư
Tình hình dịch Covid-19 được phòng chống rất tốt
trong nước đã thúc đẩy tiến độ thi công các dự án, công trình. Vốn đầu tư thực
hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 4/2021 ước tính đạt 82 tỷ đồng, cao hơn
tháng 3/2021 và đạt mức tăng cao nhất so với cùng kỳ năm trước trong 3 năm gần
đây. Tính chung 4 tháng đầu năm, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước
đạt 16,7% kế hoạch năm, tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách Nhà nước
do địa phương quản lý tháng Tư ước tính đạt 82 tỷ đồng, tăng 17,5%
so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh: 58 tỷ đồng,
tăng
5,3%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện: 23,9 tỷ đồng, tăng 39,2%.
Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách
nhà nước do địa phương quản lý dự kiến thực hiện trên địa bàn tỉnh trong 4
tháng đầu năm 2021: 290,2 tỷ đồng, tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó
vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh: 206,4 tỷ đồng, tăng 5,3%; vốn ngân sách nhà nước
cấp huyện: 83 tỷ đồng, giảm 11,5%.
5. Tài chính, Ngân hàng
a/ Tài chính
Do trong nước kiểm soát tốt dịch Covid-19 nên tình hình thu ngân sách
Nhà nước 4 tháng đầu năm 2021 khả quan hơn cùng kỳ năm ngoái. Chi ngân sách Nhà
nước tập trung bảo đảm các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh, y tế và quản lý Nhà nước.
Tổng thu ngân sách Nhà nước
từ đầu năm đến thời điểm 30/4/2021 ước tính đạt 1.391 tỷ đồng, đạt 35,7% dự
toán năm. Trong đó: thu nội địa (không kể
thu dầu thô) đạt 1.051 tỷ đồng, đạt 38,9%; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu
340 tỷ đồng, đạt 28,3%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước (không tính chi từ nguồn vốn
Trái phiếu Chính phủ) ước tính đạt 2.215,2 tỷ đồng, đạt
40% dự toán năm. Công tác chi ngân sách được đảm bảo kế hoạch và
đáp ứng kịp thời việc điều hành thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của
địa phương. Thực hiện tiết kiệm tối đa các khoản chi hành chính và mua sắm
trang thiết bị phục vụ công tác.
b/ Ngân hàng
Hoạt
động tiền tệ, ngân hàng trên địa bàn trong tháng 4/2021 ổn định và an toàn. Dư
nợ tín dụng khởi đầu có sự tăng trưởng so với tháng trước và cuối năm 2020. Vốn
tín dụng được tập trung đầu tư phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, các lĩnh
vực ưu tiên, các chương trình tín dụng trọng điểm theo chủ trương của Chính phủ,
của Ngành và của Tỉnh.
Theo
báo cáo của Ngân hàng nhà nước chi nhánh tỉnh Ninh Thuận, ước đến cuối
tháng 4/2021:
Nguồn vốn huy động trên địa bàn ước đạt 17.150
tỷ đồng, tăng 152 tỷ đồng (+0,89%) so với tháng trước, tăng 372 tỷ đồng
(+2,22%) so với cuối năm 2020, bằng 91,2% kế hoạch năm 2021.
Tổng dư nợ tín dụng ước đạt 31.100
tỷ đồng, tăng 307 tỷ đồng (+1%) so với tháng trước, tăng 721 tỷ đồng (+2,37%)
so với cuối năm 2020, bằng 89% kế hoạch năm 2021.
Dư nợ xấu trên địa
bàn là 210 tỷ
đồng, chiếm tỷ lệ 0,68% so với tổng dư nợ, bằng với tỷ lệ nợ xấu cuối
tháng trước (số tuyệt đối tăng 02 tỷ đồng) và tăng 0,04% so với tỷ lệ nợ xấu cuối
năm 2020 (số tuyệt đối tăng 15,2 tỷ đồng).
6.
Thương mại, giá cả, dịch vụ
a/ Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng
Do nước ta kiểm soát tốt
dịch Covid-19 nên các hoạt động thương mại, dịch vụ trên địa bàn tỉnh phục hồi
đà tăng trưởng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng
Tư tăng
2,7% so với tháng trước và
tăng 50,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ
tiêu dùng tăng 20% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng mức bán lẻ hàng
hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Tư ước tính đạt 2.124,8
tỷ đồng, tăng 2,7% so với tháng trước
và tăng 50,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 1.712,5
tỷ đồng, tăng 2,4% và tăng 33,9%; doanh
thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 252,4 tỷ đồng, tăng 4,6% và tăng
218,6%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 0,5
tỷ đồng, tăng 157,7% so tháng trước và
tăng so cùng kỳ; doanh thu dịch vụ khác đạt 159,3 tỷ đồng, tăng 3,3% và tăng 210,7%.
Tính chung 4 tháng đầu
năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt
8.614,8
tỷ đồng, tăng 20% so với cùng kỳ năm trước.
b/ Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ
số giá đô la Mỹ
Chỉ
số giá tiêu dùng chung tháng Tư chỉ tăng nhẹ 0,05% so với tháng trước, chủ yếu
do chỉ số giá các nhóm mặt hàng có độ tăng/giảm thấp. Tuy nhiên, chỉ số giá
tháng 4/2021 so cùng kỳ và chỉ số giá bình quân 4 tháng so cùng kỳ đều tăng
khá.
Trong
mức tăng 0,05% của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4/2021 so với tháng trước
có 4/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng nhẹ, trong đó: nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,29% do giá thuốc lá
tăng; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,31% do giá các vật liệu xây dựng
tăng, đặc biệt là giá thép tăng cao do nhu cầu xây dựng tăng, cộng với giá phôi
thép tăng mạnh, chi phí nguyên vật liệu đầu vào tăng đã làm cho giá thép bán ra
tăng; thiết bị và đồ dùng
gia đình tăng 0,21%; giao thông tăng 0,71%
do giá xăng dầu bình quân trong tháng tăng 1,69%. 4/11 nhóm hàng hóa và dịch
vụ có chỉ số giá không thay đổi: nhóm may mặc, mũ nón và giầy dép; thuốc và dịch vụ y tế;
bưu chính, viễn thông; giáo dục. 3 nhóm còn lại có chỉ số giá giảm là: nhóm
hàng ăn và dịch vụ ăn
uống giảm 0,29% do giá nhóm lương thực, thực phẩm giảm so tháng trước; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,06%; hàng hóa và dịch
vụ khác giảm 0,19%.
CPI bình quân 4 tháng đầu
năm 2021 tăng 2,92% so với bình quân cùng kỳ năm 2020; CPI tháng 4/2021 tăng
0,72% so với tháng 12/2020 và tăng 4,44% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá vàng giảm 3,07% so với tháng trước và
giảm 4,33% so với tháng 12/2020, nhưng tăng 13,34% so cùng kỳ năm trước; giá
vàng 9999 hiện ở mức 5.280.000 đồng/chỉ. Chỉ số giá Đô la Mỹ giảm 1,16% so với
tháng trước và tăng 1,49% so cùng kỳ năm trước; giá Đô la Mỹ hiện ở mức 23.700
đồng/USD.
c/ Vận tải hành khách và hàng hóa
Tình
hình dịch Covid-19 được kiểm soát tốt đã thúc đẩy hoạt động vận tải trong tháng
Tư tăng mạnh so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước, nhất là vận tải
hành khách.
Vận tải hành khách tháng Tư ước đạt 0,4 triệu lượt
hành khách vận chuyển, tăng 78,2% so với tháng trước và luân chuyển 27,6 triệu
lượt hành khách.km, tăng 60%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, vận
tải hành khách đạt 1,3 triệu lượt hành khách vận chuyển, tăng 13,6% so với cùng
kỳ năm trước và luân chuyển 97,9 triệu lượt hành khách.km, tăng 10,4%. Toàn
bộ là hoạt động vận tải đường
bộ trong nước.
Vận tải hàng hóa tháng Tư ước đạt 0,6 triệu tấn
hàng hóa vận chuyển, tăng 15,5% so với tháng trước và luân chuyển 40,9 triệu tấn.km,
tăng 8%. Lũy kế 4 tháng, vận tải hàng hóa đạt 2,1 triệu tấn hàng hóa vận
chuyển, tăng 18,2% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 159,7 triệu tấn.km,
tăng 17,3%. Toàn bộ là hoạt động vận tải đường bộ trong nước.
7.
Một số vấn đề xã hội
a/ Lao động, việc làm
Trong tháng đã tư vấn giới thiệu việc làm cho 2.769 lượt người, trong
đó kết nối có việc làm cho 55 người nâng tổng số người được tư
vấn, giới thiệu việc làm cho lao động; tư vấn, giới thiệu việc làm và hỗ trợ học
nghề cho người tham gia bảo hiểm thất nghiệp đến tháng 4/2021 là 6.209/15.000
lượt người đạt tỷ lệ 41,39%. Tỷ lệ lao động tìm được việc làm qua Trung tâm Dịch
vụ việc làm đến tháng 4/2021 đạt 4,34% (217/5.000 người); kết nối có việc làm
217/1.000 người đạt 21,7%. Số người
lao động nộp hồ sơ đề nghị hưởng bảo hiểm thất nghiệp là 476 hồ
sơ, số người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng 293 hồ sơ
với kinh phí chi trả là 4,26 tỷ đồng, nâng tổng số hồ sơ đề
nghị hưởng bảo hiểm thất nghiệp 4 tháng đầu năm lên 892
hồ sơ, trong đó có 736 hồ sơ có quyết định được hưởng trợ cấp thất nghiệp với số
tiền chi là 11,27 tỷ đồng.
b/ Đời sống dân cư, công tác an sinh xã hội
Trong tháng Tư, công tác chăm lo cho các đối
tượng chính sách Người có công với cách mạng, các hộ nghèo, cận
nghèo, bảo trợ xã hội, Người Cao tuổi,... tiếp tục được triển
khai thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng. Đời
sống dân cư nhìn chung ổn định.
Thực hiện tốt công tác chăm sóc, nuôi dưỡng đối
tượng bảo trợ xã hội tại Trung tâm công tác xã hội tỉnh, tổng
số đối tượng hiện đang quản lý và nuôi dưỡng tại Trung tâm Công tác xã hội tỉnh
là:
237/81 nữ. Trong đó: Người cao tuổi 15/12 nữ; trẻ mồ côi 48/27 nữ; người tâm thần
174/42 nữ (tâm thần đặc biệt nặng: 68/16 nữ, tâm thần nặng: 72/19 nữ, tâm thần
phục hồi/thuyên giảm: 34/07 nữ).
c/
Giáo
dục
Triển khai công tác
chuẩn bị Lễ công bố quyết định của Thủ tướng Chính phủ sáp nhập Trường CĐSP
Ninh Thuận vào Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh; và công tác bàn giao Trường
CĐSP Ninh Thuận cho Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh theo chỉ đạo của
UBND tỉnh.
Xây dựng kế hoạch tổng kết công tác triển khai
chương trình đổi mới, sách giáo khoa giáo dục phổ thông đối với lớp 1 năm học
2020-2021 theo chỉ đạo của Bộ GD-ĐT; trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt Khung
chi tiết tài liệu giáo dục địa phương cấp Trung học cơ sở; triển khai công tác
lựa chọn sách giáo khoa lớp 2, lớp 6 theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
d/ Chăm sóc sức khỏe cộng đồng
Phòng chống dịch Covid-19: Tính đến 15/4/2021, Ninh Thuận không phát sinh ca
nhiễm Covid-19 mới ngoài 11 trường hợp đã khỏi bệnh: BN61, BN67, BN1221, BN2517,
BN2518, BN2519, BN2520, BN2521, BN2522, BN2523 và BN2533. Tính đến nay, Ninh Thuận không có ca lây nhiễm
Covid-19 cộng đồng.
Các bệnh truyền nhiễm lưu hành: Tính
đến ngày 15/4/2021: toàn tỉnh có 123 trường hợp mắc Sốt xuất huyết, tăng 17,1%
so với cùng kỳ năm 2020; 48 trường hợp mắc Tay chân miệng, tăng 182,3%; 33 trường
hợp mắc Thủy đậu, giảm 50,7%; 02 trường hợp mắc Quai bị, giảm 50%.
đ/ Văn
hóa, thể thao, du lịch
Trong tháng, Bảo tàng
tỉnh khảo sát điền dã phục vụ lập hồ sơ Di sản văn phi vật thể cấp quốc gia Lễ
hội Ăn mừng lúa mới người Raglai. Tiếp nhận và nhập kho 196 hiện vật. Thực hiện
trưng bày, triển lãm tại chỗ chuyên đề “Ninh Thuận chiến tranh và hòa bình
(1975-2020); triển lãm lưu động tại huyện Bác Ái chuyên đề “Đồng bào Raglai với
vùng đất Ninh Thuận”. Trung tâm Nghiên cứu văn hóa Chăm sưu tầm được 04 nhạc cụ
chất liệu đồng, tổ chức 01 cuộc khảo sát về di tích lịch sử văn hóa trên địa
bàn huyện Thuận Nam; phối hợp xây dựng kế hoạch và trưng bày chuyên đề "Di
sản Chăm văn hóa Ninh Thuận - Quảng Nam".
Tổ chức thi đấu giải bóng rổ không chuyên tỉnh Ninh Thuận lần thứ III năm 2020-2021; phối hợp
tổ chức thành công đón và đưa Giải xe đạp nữ Quốc
tế Bình Dương mở rộng lần thứ XI năm 2021 - Cúp Biwase.
Tham
mưu Kế hoạch tổ chức Hội nghị xúc tiến, quảng bá du lịch Ninh Thuận tại thành
phố Hồ Chí Minh và tham gia gian hàng Ngày hội du lịch thành phố
Hồ Chí Minh năm 2021; Hội chợ du lịch Quốc tế Việt
Nam - VITM Hanoi 2021.
e/ Tai nạn giao thông
Trong
tháng (từ
ngày 15/3 đến
ngày 14/4/2021), xảy ra 11 vụ tai nạn
giao thông, bao gồm 6 vụ tai nạn giao thông từ nghiêm trọng trở lên và 5 vụ va
chạm giao thông, làm 07 người chết, 22 người bị thương. So với tháng trước, số vụ tai nạn giao thông không tăng không giảm;
số người chết tăng 04 người (+133,3%); số người
bị thương giảm 01 người (-33,33%). So với cùng kỳ
năm trước, Số vụ tăng 04 vụ (+200%); số
người chết tăng 05 người (+250%); số người bị thương tăng 01 người (+100%).
Tính chung 04 tháng năm
2021, cả tỉnh đã xảy ra 60 vụ tai nạn giao thông, làm 27 người chết, 70 người bị
thương. So với cùng kỳ năm trước, số
vụ tai nạn giao thông trong 04 tháng tăng 13 vụ (+27,7%); số người chết tăng 08
người (+42,1%); số người bị thương tăng 09 người (+17,6%). Bình quân 02 ngày xảy
ra 01 vụ tai nạn giao thông.
g/ Tình hình cháy, nổ
Trong tháng 04 xảy ra 01 vụ cháy tại nhà máy gạch
không nung thuộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Vạn Gia thuộc khu công nghiệp Phước
Nam, tọa lạc quốc lộ 1A xã Phước Nam, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận, không
thiệt hại về người, tài sản ước thiệt hại khoảng 95,6 triệu đồng. Nguyên nhân
gây cháy hiện đang tiến hành điều tra làm rõ.
Lũy kế 4 tháng năm 2021 xảy ra 3 vụ cháy, giảm
02 vụ so cùng kỳ 2020; không có người chết và bị thương, bằng cùng kỳ 2020; thiệt
hại tài sản 198,6 triệu đồng, giảm 79,3% so cùng kỳ năm 2020.
Vụ nổ không xảy ra.
h/ Thiệt hại do thiên tai
Trong tháng Tư không xảy ra thiên tai trên địa
bàn tỉnh./.
*Đính kèm file: “Phân tích kinh tế-xã hộitháng 4 năm 2021”
và “Số liệu thống kê KT-XH tháng 4 năm 2021”.
Nguyễn
Hồng Thiện
(Phòng thống kê Tổng hợp)
|