18-07-2023
Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam (28/7/1929 - 28/7/2023)
I. KHÁI QUÁT SỰ RA ĐỜI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ
CÔNG HỘI ĐỎ - TIỀN THÂN CỦA TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
1. Sự ra đời của của giai cấp công nhân Việt Nam
Giai cấp công nhân (GCCN) Việt Nam ra đời và
phát triển gắn liền với quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp những
năm cuối thế kỷ XIX. Trước khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược, xã hội Việt Nam
vẫn là một xã hội phong kiến với hai giai cấp cơ bản là giai cấp địa chủ phong
kiến và giai cấp nông dân; duy trì nền kinh tế lạc hậu dựa vào sản xuất tiểu
nông là chính, cơ sở kinh tế công nghiệp, dịch vụ chưa phát triển. Sau khi cuộc
xâm lăng và bình định đã cơ bản hoàn thành, thực dân Pháp liền bắt tay tiến
hành khai thác thuộc địa lần thứ nhất với quy mô mở rộng ra cả nước. Các nhà
máy rượu bia, vải sợi, điện nước, ngành đường sắt, hầm mỏ, đồn điền cao su, cà
phê...lần lượt ra đời và cùng với đó đội ngũ những người công nhân Việt Nam đầu
tiên được hình thành. Họ là những người nông dân bị tước đoạt hết ruộng đất,
những người thợ thủ công bị phá sản buộc phải vào làm việc trong các doanh
nghiệp tư bản Pháp. Theo số liệu thống kê trước chiến tranh thế giới lần thứ
nhất, tổng số công nhân của Việt Nam khoảng trên 10 vạn người, chủ yếu tập
trung ở một số thành phố lớn như: Hà Nội, Sài Gòn - Chợ Lớn, Hải Phòng và vùng
mỏ Quảng Ninh...
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, để bù đắp
những tổn thất, thực dân Pháp đã tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai
với quy mô và tốc độ lớn hơn trước. Chúng tăng cường đầu tư vào các ngành khai
khoáng, giao thông vận tải, đồn điền, công nghiệp chế biến, dệt may...nhằm tăng
cường vơ vét và bóc lột ở các nước thuộc địa. Thời kỳ này, số lượng công nhân
Việt Nam đã phát triển nhanh chóng lên đến trên 22 vạn người vào đầu năm 1929.
Dưới sự áp bức bóc lột hà khắc của thực dân,
phong kiến, giai cấp công nhân Việt Nam đã đoàn kết, tổ chức tập hợp nhau lại
đấu tranh đòi quyền lợi, dẫn đến hình thành các Hội Ái hữu, Hội Tương tế trong
các nhà máy, xí nghiệp. Cuối năm 1920, người công nhân yêu nước Tôn Đức Thắng
đã vận động thành lập Công hội Ba Son ở Sài Gòn, mở đầu cho phong trào đấu
tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.
2. Sự ra đời của Công hội đỏ Bắc Kỳ - tiền thân
của Công đoàn Việt Nam ngày nay
Quá trình hình thành và phát triển của Công hội
đỏ Bắc Kỳ gắn liền với quá trình hoạt động cách mạng của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
trong những năm đầu của thế kỷ XX. Người đã tham gia Công đoàn hải ngoại Anh
khi hoạt động tại Luân Đôn trong những năm 1914 - 1917; gia nhập Công đoàn Kim
khí quận 17 Pari vào năm 1919. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là người đặt cơ sở lý
luận và nền tảng tư tưởng cho việc thành lập tổ chức Công đoàn Việt Nam. Trong
tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Người chỉ dẫn: “Công hội trước hết là để công nhân
đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để nghiên cứu với nhau, ba là để sửa
sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là để giữ gìn quyền
lợi cho công nhân, năm là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới”. Tháng
6/1925, Người sáng lập tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Châu -
Trung Quốc và trực tiếp giảng dạy nhằm nâng cao lý luận chính trị cho học viên.
Những năm 1925 - 1928, dưới sự lãnh đạo của Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên, phong trào “Vô sản hóa” đã thâm nhập sâu rộng
vào trong các nhà máy, xí nghiệp, hầm lò để tuyên truyền, vận động công nhân
tích cực tham gia phong trào đấu tranh. Sự ra đời của Chi bộ Cộng sản đầu tiên
(3/1929), đặc biệt là sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929) là kết
quả của quá trình vận động, tổ chức công nhân mà Nguyễn Đức Cảnh là một trong
những sáng lập viên và giữ vai trò quan trọng. Trên cương vị là Ủy viên Ban
Chấp hành Trung ương lâm thời, Nguyễn Đức Cảnh được Trung ương lâm thời phân
công phụ trách công tác vận động công nhân.
Nhận thức được vai trò quan trọng của tổ chức
Công hội, của công nhân trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, bóc lột, bảo vệ
quyền lợi của công nhân, Nguyễn Đức Cảnh và những người đồng chí đã tích cực tổ
chức cuộc vận động phong trào công nhân, trước hết là phong trào công nhân Bắc
Kỳ để thành lập tổ chức Công hội. Ngày 28/7/1929, Đại hội đại biểu Tổng Công
hội Đỏ Bắc Kỳ lần thứ nhất khai mạc do đồng chí Nguyễn Đức Cảnh chủ trì. Đại
hội đã quyết định thành lập Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ, thông qua Điều lệ và hệ
thống tổ chức của Công hội, ra báo “Lao động” và tạp chí “Công hội Đỏ”, bầu Ban
Chấp hành Trung ương lâm thời do đồng chí Nguyễn Đức Cảnh làm Hội trưởng. Sự
kiện thành lập Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ là mốc son chói lọi trong lịch sử phong
trào công nhân và Công đoàn Việt Nam. Kể từ đây, GCCN Việt Nam có một đoàn thể
cách mạng rộng lớn, hoạt động có tôn chỉ, mục đích, đứng ra dẫn dắt phong trào.
II. PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VÀ HOẠT ĐỘNG CÔNG ĐOÀN
QUA CÁC THỜI KỲ CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 -
1945)
Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được
thành lập. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Tổng Công hội Đỏ đã tập hợp lực lượng thợ
thuyền, đội quân chủ lực của cách mạng Việt Nam, tạo nên cao trào Xô Viết Nghệ
Tĩnh 1930-1931. Cuối năm 1931, phong trào đấu tranh của GCCN Việt Nam bị thực
dân Pháp đàn áp dã man, hầu hết số cán bộ Đảng và Công hội Đỏ đều bị địch bắt,
khiến cho mối liên lạc giữa Đảng và quần chúng, giữa Công hội Đỏ và phong trào
công nhân gần như bị gián đoạn. Trong điều kiện đó, bất chấp sự kiểm soát gắt
gao của thực dân Pháp, Công hội Đỏ vẫn tích cực tuyên truyền, vận động công
nhân, phát triển tổ chức. Từ năm 1932-1936, phong trào cách mạng trong cả nước
bắt đầu phục hồi.
Từ năm 1936-1939, tổ chức Công hội Đỏ đổi tên
thành Nghiệp đoàn, Hội Ái hữu chuyển sang thời kỳ hoạt động bán công khai. Nhờ
sự tổ chức linh hoạt, thích hợp với tình hình, phong trào công nhân giai đoạn
này vẫn phát triển mạnh mẽ lên đỉnh điểm mới. Tháng 9/1939, chiến tranh thế
giới lần thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp đầu hàng và thỏa hiệp với phát xít Nhật
thẳng tay đàn áp phong trào dân chủ chống chiến tranh của nhân dân ta, thủ tiêu
các quyền tự do nghiệp đoàn. Trước tình hình đó, tổ chức Nghiệp đoàn, Hội Ái hữu
phải rút vào hoạt động bí mật và lấy tên là “Hội công nhân phản đế”, năm 1941
đổi thành “Hội Công nhân cứu quốc” làm nòng cốt cho hoạt động của tổ chức Việt
Minh.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Công đoàn Việt Nam
thực sự là trung tâm đoàn kết của công nhân lao động Việt Nam. Với trên 20 vạn
người trong năm 1945, các đoàn viên Công đoàn trở thành lực lượng nòng cốt làm
nên cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa - Nhà nước Công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
2. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945
- 1954)
Sau Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, tháng 3/1946, Hội nghị đại biểu Công nhân cứu quốc
Bắc Bộ, Trung Bộ và Tổng Công đoàn Nam Bộ đã quyết định thống nhất về mặt tổ
chức trên phạm vi cả nước thành “Hội Công nhân cứu quốc”. Tháng 6/1946, tại Hội
nghị cán bộ Công đoàn cứu quốc đã đổi tên “Hội Công nhân cứu quốc” thành “Công
đoàn”. Ngày 20/7/1946, tại Nhà hát lớn Hà Nội, “Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam” đã chính thức được thành lập và được công nhận là thành viên chính thức
của Liên hiệp Công đoàn thế giới vào năm 1949.
Trong những năm đầu đất nước giành độc lập, tổ
chức Công đoàn và GCCN Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc bảo
vệ và phát huy thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám, tham gia tích cực vào
cuộc Tổng Tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, các đội cảm tử Thủ
đô, trong đó nòng cốt là công nhân đã chiến đấu với tinh thần quả cảm, anh
dũng.
Thực hiện nhiệm vụ vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã tổ chức vận động công nhân, viên
chức, lao động (CNVCLĐ) tập trung xây dựng nhà máy, công xưởng, sản xuất vũ
khí, khí tài quân sự; khắc phục khó khăn, hăng hái thi đua lao động phục vụ
kháng chiến. Tại chiến khu Việt Bắc, từ ngày 01-15/01/1950, Đại hội lần I Công
đoàn Việt Nam đã khẳng định mục tiêu: “Động viên công nhân viên chức cả nước,
nhất là công nhân ngành Quân giới sản xuất nhiều vũ khí, khí tài phục vụ kháng
chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi”.Tại Đại hội này, đồng chí Hoàng Quốc
Việt được bầu làm Chủ tịch.
Tháng 2/1951, Đại hội lần thứ II của Đảng đề ra
nhiệm vụ đẩy mạnh phát triển kinh tế phục vụ tổng phản công, đưa cuộc kháng chiến
đến thắng lợi hoàn toàn. Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng, Công đoàn vận
động công nhân hăng hái sản xuất và tham gia quản lý, xây dựng xí nghiệp. Đây
là bước chuyển biến lớn về nhận thức tư tưởng và phương thức hoạt động Công
đoàn. Từ đây trong các xí nghiệp quốc doanh, Công đoàn đại diện cho công nhân
tham gia các Ủy ban xí nghiệp, góp phần trực tiếp quản lý sản xuất kinh doanh,
đưa nền kinh tế kháng chiến phát triển về mọi mặt. Ở vùng tự do, Công đoàn phát
động công nhân “Thi đua sản xuất, thi đua xây dựng”, “Cải tiến kỹ thuật, phát
huy sáng kiến, trau dồi nghề nghiệp”. Phong trào được tổ chức, chỉ đạo tương
đối chặt chẽ, thực hiện dân chủ trong quản lý sản xuất.
Giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến, Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam đã tập hợp, đoàn kết, phát huy vai trò tiên phong của
GCCN vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh, đấu tranh kiên cường, góp
phần cùng quân và dân cả nước làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) lừng lẫy
năm châu, chấn động địa cầu, kết thúc vẻ vang 9 năm kháng chiến chống thực dân
Pháp, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
3. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954- 1975)
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Việt Nam tạm thời
bị chia thành hai miền, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng và bắt tay vào công
cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội (CNXH), miền Nam còn dưới ách thống trị của đế
quốc Mỹ.
Đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, Hội nghị Ban
Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (khóa I) họp vào tháng 8/1954 đã xác
định nhiệm vụ trọng tâm là “Cần phải động viên, tổ chức đông đảo quần chúng lao
động trong các đô thị thành một lực lượng mạnh mẽ làm chỗ dựa tốt nhất, chắc
chắn nhất cho chính quyền tiến hành công tác tiếp thu, phục hồi sản xuất, giữ
gìn an ninh, trật tự thành phố”.
Ở miền Bắc tiến hành công cuộc tái thiết đất
nước, khó khăn tiếp tục đặt lên vai người công nhân. Với trách nhiệm chủ nhân
của đất nước, đội ngũ CNVCLĐ đã đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí. Nhờ vậy chỉ trong thời gian ngắn hoạt động sản xuất tại các cơ sở
công nghiệp đã phục hồi. Qua thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, những điển
hình trong phong trào thi đua yêu nước của GCCN được lan tỏa, như “Sóng Duyên
Hải”, “Hợp tác xã Thành Công”, “Ba quyết tâm”…đã xuất hiện nhiều CNVCLĐ tiêu
biểu được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, là những tấm
gương sáng trong học tập, lao động sản xuất và chiến đấu.
Ở miền Nam, phong trào công nhân, Công đoàn hoạt
động trong điều kiện vô cùng khó khăn, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình
Diệm ra sức khủng bố, đàn áp. Các ngành công nghiệp, thủ công nghiệp bị đình
đốn, đời sống của CNVCLĐ khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng đã chỉ đạo các cơ
sở trong nội thành, trong các đồn điền phải tìm mọi cách bám đất, bám dân phát
triển lực lượng, tổ chức cho công nhân đấu tranh.
Ngày 5/11/1957, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ký Sắc lệnh số 108-SL/L10 về ban hành Luật Công đoàn đã tạo cơ sở pháp
lý, nâng cao vị trí của tổ chức Công đoàn, củng cố vai trò lãnh đạo của GCCN
trong tình hình mới. Thắng lợi của công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội
chủ nghĩa và bước đầu phát triển kinh tế, văn hóa đã tạo ra những tiền đề quan
trọng góp phần xây dựng và đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH, đồng thời đấu tranh
thực hiện thống nhất nước nhà, thành quả đó có đóng góp quan trọng của GCCN và
tổ chức Công đoàn Việt Nam.
Trước những yêu cầu mới, Đại hội lần thứ II Công
đoàn Việt Nam được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 23-27/2/1961đã quyết định đổi tên
“Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam” thành “Tổng Công đoàn Việt Nam”. Đại hội đã
đề ra mục tiêu: “Động viên cán bộ, công nhân, viên chức thi đua lao động sản
xuất, xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc với tinh thần mỗi người làm việc
bằng hai vì miền Nam ruột thịt, góp phần đấu tranh thống nhất nước nhà”; đồng
chí Hoàng Quốc Việt tiếp tục được bầu làm Chủ tịch.
Đại hội lần thứ III Công đoàn Việt Nam được tổ
chức từ ngày 11-14/2/1974 tại Hà Nội bầu đồng chí Tôn Đức Thắng - Chủ tịch nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa làm Chủ tịch danh dự, đồng chí Hoàng Quốc Việt tiếp
tục giữ cương vị Chủ tịch. Mục tiêu của Đại hội là “Các cấp Công đoàn phải phát
động phong trào thi đua lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng CNXH với năng suất
lao động, hiệu quả công tác, phục vụ và tham gia chiến đấu, quyết tâm giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước”.
Tổng Công đoàn Việt Nam tham gia xây dựng một số
chế độ, chính sách bổ sung và sửa đổi về lao động, tiền lương, tiền thưởng.
Liên hiệp Công đoàn các tỉnh, thành phố đã ký kết Nghị quyết liên tịch với cơ
quan chính quyền đồng cấp về việc tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách đối
với CNVCLĐ. Nhiều Công đoàn cơ sở đã kịp thời động viên CNVCLĐ thi đua lao
động, sản xuất, phấn đấu hoàn thành kế hoạch được giao. Việc thực hiện quy tắc
an toàn lao động, vệ sinh công nghiệp được thực hiện tốt hơn, cải thiện điều
kiện làm việc cho CNVCLĐ.
Năm 1965 Liên hiệp Công đoàn giải phóng miền Nam
được thành lập đã không ngừng củng cố và phát triển, vừa tổ chức cho CNVCLĐ các
thành phố đấu tranh, vừa động viên CNVCLĐ vùng giải phóng đẩy mạnh sản xuất
phục vụ chiến đấu. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu thân 1968 và
Chiến dịch Hồ Chí Minh, Công đoàn giải phóng đã vận động CNVCLĐ ở các đô thị
đồng loạt nổi dậy, phối hợp với lực lượng vũ trang tiêu diệt địch, góp phần
cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất
Tổ quốc.
4. Thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội (1975 -
1986)
Đầu năm 1976, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ra đời, đã tạo điều kiện cơ bản để thống nhất tổ chức Công đoàn trên
phạm vi cả nước.
Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, từ tháng
01/1976 Tổng Công đoàn Việt Nam và Liên hiệp Công đoàn giải phóng miền Nam bắt
tay vào chuẩn bị các điều kiện cho việc thống nhất tổ chức Công đoàn của GCCN
Việt Nam. Ngày 6/6/1976, Hội nghị Công đoàn toàn quốc được tổ chức tại thành
phố Hồ Chí Minh đã quyết định thống nhất Công đoàn hai miền Nam, Bắc thành
“Tổng Công đoàn Việt Nam”.
Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ IV được tổ
chức tại Hà Nội từ ngày 08-11/5/1978 đã nêu rõ mục tiêu: “Động viên GCCN và
những người lao động khác thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh tế, đẩy mạnh
công nghiệp hóa trong cả nước”; đồng chí Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Bộ Chính trị
được bầu làm Chủ tịch.
Những năm 1981-1982, Công đoàn đã tiến hành
nhiều đợt tuyên truyền sâu rộng trong công nhân, viên chức về tình hình và
nhiệm vụ của đất nước, về chủ trương, chính sách, nhất là các chính sách kinh
tế của Đảng và Nhà nước. Đi đôi với giáo dục chính trị, Công đoàn đã có nhiều
cố gắng trong việc duy trì phong trào học bổ túc văn hoá, kỹ thuật, nghiệp vụ;
đẩy mạnh các hoạt động văn hoá, văn nghệ quần chúng, thể dục thể thao; công tác
báo chí, xuất bản của Công đoàn đã có những tiến bộ mới.
Đại hội lần thứ V Công đoàn Việt Nam tiến hành
từ ngày 16-18/11/1983 đã khẳng định mục tiêu: “Động viên công nhân, lao động
thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn của Đảng, là phát triển nông nghiệp, công
nghiệp thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”, Đại hội đã Quyết định lấy
ngày 28/7/1929 là Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam, đồng chí Nguyễn Đức Thuận
được bầu làm Chủ tịch.
Các phong trào thi đua lao động sản xuất, phát
huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong CNVCLĐ đã tạo được bước chuyển biến tích
cực, nhiều điển hình tiên tiến và nhân tố mới đã hình thành, góp phần to lớn
vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác phát triển đoàn viên được
Công đoàn chú trọng, số đoàn viên và Công đoàn cơ sở ngày càng tăng lên. Bên
cạnh đó, Công đoàn còn tham gia vào lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động,
đề nghị Nhà nước bổ sung phụ cấp ốm đau, thai sản, tại nạn lao động, trợ cấp
khó khăn…Các chế độ nghỉ ngơi, tham quan du lịch và các hoạt động văn hóa, văn
nghệ, thể thao được duy trì, phát triển.
Nhân dịp kỷ niệm 55 năm Ngày thành lập Công đoàn
Việt Nam (28/7/1929-28/7/1984), Nhà nước đã tặng Tổng Công đoàn Việt Nam Huân
chương Sao Vàng - Huân chương cao quý nhất của Nhà nước Việt Nam.
5. Thời kỳ thực hiện công cuộc đổi mới đất nước
(1986 - 2023)
Trong tình hình đất nước tiến hành đối mới, từng
bước hội nhập, Đại hội lần thứ VI Công đoàn Việt Nam họp từ ngày17-20/10/1988
tại Hà Nội đã xác định mục tiêu: “Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng vì việc
làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội”. Đại hội Quyết định đổi tên “Tổng
Công đoàn Việt Nam” thành “Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam”; đồng chí Nguyễn
Văn Tư được bầu làm Chủ tịch. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, GCCN và
tổ chức Công đoàn Việt Nam đã có nhiều đóng góp vào kết quả thực hiện kế hoạch
5 năm (1986 - 1990), đưa đất nước ta dần thoát khỏi khó khăn, ổn định đời sống
nhân dân và CNVCLĐ.
Đại hội lần thứ VII Công đoàn Việt Nam được tổ
chức từ ngày 09-12/11/1993 tại Hà Nội đã nhấn mạnh yêu cầu “Đổi mới tổ chức và
hoạt động Công đoàn, góp phần xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, chăm lo bảo vệ lợi ích
công nhân lao động”; đồng chí Nguyễn Văn Tư được bầu làm Chủ tịch.
Đại hội lần thứ VIII Công đoàn Việt Nam họp từ ngày
03-06/11/1998 nhấn mạnh “Vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
vì việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội, xây dựng GCCN và tổ chức
Công đoàn vững mạnh”; đồng chí Cù Thị Hậu được bầu làm Chủ tịch.
Đại hội lần thứ IX Công đoàn Việt Nam họp từ
ngày 10-13/10/2003, đồng chí Cù Thị Hậu tiếp tục được bầu lại làm Chủ tịch, Đại
hội đã khẳng định “Xây dựng GCCN và tổ chức Công đoàn vững mạnh, chăm lo bảo vệ
quyền lợi hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ, góp phần tăng cường đại đoàn kết dân
tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Đại hội lần thứ X Công đoàn Việt Nam họp từ ngày
02-05/11/2008 đã xác định mục tiêu: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động của Công đoàn các cấp, hướng về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn hoạt
động chủ yếu, lấy đoàn viên, CNVCLĐ làm đối tượng vận động, chuyển mạnh hoạt
động Công đoàn vào việc tổ chức thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, CNVCLĐ, xây dựng quan hệ lao động hài hòa,
ổn định, tiến bộ, góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của
đất nước”; đồng chí Đặng Ngọc Tùng được bầu làm Chủ tịch. Nhiệm kỳ lần thứ X
của Công đoàn Việt Nam hoạt động trong bối cảnh GCCN Việt Nam đã không ngừng
lớn mạnh về số lượng và chất lượng, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW về “Tiếp
tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước”. Nghị quyết thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước
về xây dựng GCCN, đồng thời đáp ứng nguyện vọng của hàng triệu CNVCLĐ trong cả
nước. Những hoạt động triển khai thực hiện Nghị quyết 20-NQ/TW đã nhận được sự
quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, cùng với sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ
thống chính trị và Công đoàn đã tạo được chuyển biến trong cả nhiệm kỳ hoạt
động, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng, nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần cho đoàn viên và người lao động.
Đại hội lần thứ XI Công đoàn Việt Nam được tổ
chức từ ngày 27-30/7/2013 đã xác định phương châm hành động, đó là “Vì quyền,
lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao động, vì sự phát triển
bền vững của đất nước, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động công
đoàn”; đồng chí Đặng Ngọc Tùng tiếp tục được bầu làm Chủ tịch.
Đại hội lần thứ XII Công đoàn Việt Nam diễn ra
từ ngày 24-26/9/2018, đồng chí Bùi Văn Cường được bầu làm Chủ tịch. Đại hội đã
xác định 09 nhóm chỉ tiêu, 09 nhiệm vụ tổng quát và 03 khâu đột phá trong cả
nhiệm kỳ, ngoài ra còn có 01 chương trình trọng tâm “Công đoàn Việt Nam đồng
hành cùng Chính phủ nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, phát triển bền vững
đất nước”. Hiện nay, đồng chí Nguyễn Đình Khang - Ủy viên Ban Chấp hành Trung
ương khóa XIII là Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam.
Có thể khẳng định rằng, trong công cuộc đổi mới
đất nước, trải qua 07 kỳ Đại hội Công đoàn Việt Nam, GCCN Việt Nam đã không
ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, đang có mặt trong tất cả các ngành
nghề, các thành phần kinh tế, là lực lượng quan trọng, đi đầu trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam là dịp để cán bộ, đoàn viên,
CNVCLĐ cùng nhân dân cả nước ôn lại, phát huy truyền thống vẻ vang của GCCN và
tổ chức Công đoàn Việt Nam; ra sức thi đua, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
III. Khẩu hiệu tuyên truyền
- Nhiệt liệt chào mừng kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam (28/7/1929 - 28/7/2023)!
- Nhiệt liệt chào mừng đại hội công đoàn các cấp
và Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam, nhiệm
kỳ 2023-2028!
- Cán bộ, đoàn viên, người lao động quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết đại hội công đoàn các cấp và Nghị quyết Đại
hội XIII Công đoàn Việt Nam, nhiệm
kỳ 2023-2028!
- Công đoàn Việt Nam đổi mới, sáng tạo vì quyền, lợi ích của đoàn viên, người lao động, vì sự phát triển bền vững
của đất nước!
- Xây
dựng Công đoàn Việt Nam vững mạnh
toàn diện, là cơ sở chính trị -
xã hội vững chắc của Đảng, Nhà nước!
- Xây
dựng Công đoàn Việt Nam vững mạnh và xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại, lớn mạnh là
trách nhiệm của Đảng, của hệ thống chính trị và
toàn xã hội!
- Cán
bộ, đoàn
viên công đoàn, người lao động đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh!
- Công
chức, viên chức, người lao động ra sức thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội năm 2023!
BCH CĐCS – Ban nữ công CTK – Bảo Uyên
|
|
-
Đang online:
16
-
Hôm nay:
669
-
Trong tuần:
5674
-
Tất cả:
871518
|
|