BÁO CÁO TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THÁNG 5 NĂM 2019
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

a. Nông nghiệp

Tính đến ngày 15/5/2019, toàn tỉnh lúa đông xuân cơ bản đã thu hoạch xong, một số diện tích gieo cấy chậm dự kiến sẽ thu hoạch dứt điểm trong tuần đầu tháng 6, ước năng suất lúa của toàn tỉnh đạt 65,2 tạ/ha, tăng 0,7 tạ/ha so đông xuân 2018.

Diện tích ngô thu hoạch 2.528 ha, đạt 94,1% diện tích ngô gieo trồng, năng suất thu hoạch ước đạt 58,7 tạ/ha. Dự ước năng suất ngô vụ đông xuân năm nay đạt 59,2 tạ/ha, giảm 1 tạ/ha, sản lượng 15,9 nghìn tấn, giảm 7,8% so cùng kỳ do giảm diện tích và năng suất giảm do thời tiết nắng nóng kéo dài.

Cây sắn niên vụ 2018-2019 trong tháng đã thu hoạch xong, năng suất đạt 198,6 tạ/ ha, giảm 8,7 tạ/ha so cùng kỳ, sản lượng sắn thu hoạch đạt 88,9 nghìn tấn, tăng 48% so cùng kỳ; do tăng diện tích 54,5% so nên vụ trước. Năng suất sắn giảm mạnh do ảnh hưởng mưa nhiều của cơn bão số 9 ở cuối năm 2018 làm cây sắn ứ nước giảm khả năng tạo củ, sau đó nắng nóng lại đến sớm kéo dài làm củ sắn khó phát triển, củ nhỏ.

Diện tích rau các loại thu hoạch đạt 3.115 ha, giảm 5,1%, năng suất ước đạt 169,5 tạ/ha, giảm 7,4 tạ/ha so cùng kỳ, sản lượng rau các loại ước đạt 52,8 nghìn tấn, giảm 9% so cùng kỳ. Giảm do một số diện tích chuyển sang trồng lúa, năng suất các loại rau nhìn chung giảm hơn cùng kỳ, do nắng nóng, một số diện tích vào thời điểm thu hoạch xuất hiện một số sâu bệnh gây hại như: sâu đục thân, ruồi đục trái, bọ trĩ ..., làm giảm năng suất như cà chua năng suất ước đạt 138 tạ/ha, giảm 6 tạ/ha; bí đỏ 85,7 tạ/ha, giảm 0,8 tạ/ha; bí xanh 125 tạ/ha, giảm 5 tạ/ha; khổ qua 77,9 tạ/ha, giảm 1,6 tạ/ha so cùng kỳ; một số cây lấy củ, rễ hoặc thân như tỏi, hành đỏ cũng giảm so cùng kỳ. Cây đậu các loại thu hoạch đạt 789 ha, năng suất ước đạt 10,4 tạ/ha, tăng 0,4 tạ/ha so đông xuân trước. Trong đó, năng suất đậu xanh ước đạt 9,1 tạ/ha, tăng 0,1 tạ/ha so cùng kỳ; đậu đen ước đạt 14,3 tạ/ha, giảm 0,3 tạ/ha so cùng kỳ.

Vụ hè - thu năm 2019 toàn tỉnh dự kiến gieo trồng 21.542 ha; trong đó, lúa 13.520 ha, diện tích còn lại là cây màu. Trước tình hình nắng nóng gay gắt, UBND tỉnh đã chỉ đạo ngành chức năng, các địa phương xây dựng kế hoạch sản xuất linh hoạt, ứng phó với nắng hạn theo hướng là không mở rộng diện tích lúa, chú trọng chuyển đổi cây trồng cạn để tiết kiệm nước..

Trong tháng dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm được kiểm soát tốt; thị trường và giá tiêu thụ đối với gia súc có sừng (nhất là bò và dê, cừu) thuận lợi, đang hút mạnh từ Trung Quốc nên các loại vật nuôi này dự ước sẽ xuất mạnh trong các tháng tới. Riêng đối với trâu, thị trường tiêu thụ chủ yếu trong nội bộ tỉnh, giết thịt phục vụ cho cúng tế của đồng bào chăm, sản lượng không nhiều.

Đàn trâu hiện có 4.040 con, tăng 4,6% so cùng kỳ do số lượng gầy đàn tăng; Đàn bò hiện có 117.432 con, tăng 3,1%; Đàn heo hiện có 90.795 con, giảm 6,2%; Tổng đàn dê, cừu hiện có 297.460 con, tăng 1,7% so cùng kỳ (đàn dê 142.119 con, tăng 3,2%; đàn cừu đạt 155.341 con, tăng 0,5%); Xu hướng nuôi dê quy mô nhỏ gia đình ở đồng bằng và nuôi cừu ở quy mô lớn ở vùng núi đang được người chăn nuôi trong tỉnh mở rộng và phát triển. Tổng đàn gia cầm hiện có 1.662,3 nghìn con, tăng 5,8% so cùng kỳ, trong đó: gà 994,2 nghìn con tăng 2%, vịt 648,7 nghìn con, tăng 15,1% (đàn ngan, ngỗng đều giảm). Đàn gia cầm tăng lên là do thời tiết và môi trường nuôi thuận lợi, dịch bệnh được kiểm soát tốt, nhu cầu trong những ngày lễ, tết; mặt khác do ảnh hưởng dịch tả heo châu Phi nên nhu cầu tiêu thụ gia cầm tăng mạnh để thay thế thịt heo đang giảm sút.

b. Lâm nghiệp

Tình hình sản xuất lâm nghiệp của tỉnh trong tháng 5 năm 2019 chủ yếu tập trung vào công tác chăm sóc bảo vệ rừng trên diện tích 652,13ha (năm 2 là 276,53 ha, năm 3 có 357,6 ha, năm 4 có 18 ha) bằng 33,5% so cùng kỳ; do trồng rừng trong hai năm thấpdiện tích rừng chăm sóc năm 3 trở lên đã đủ độ tàn che theo quy định được chuyển thành rừng. Hiện tại các BQL rừng của tỉnh đang thiết kế, làm đất và ươm giống cây kế hoạch trồng rừng năm 2019.

Khai thác gỗ khu vực nhà nước không thực hiện. Khai thác gỗ trong tháng chủ yếu ở hộ cá thể khoảng 111,6 m3, tăng 1,3% so cùng kỳ, nâng số gỗ khai thác 5 tháng lên 1.161,9 m3, tăng 1% so cùng kỳ; củi khai thác và thu nhặt ước đạt 714 ster, giảm 1,6% so cùng kỳ, chủ yếu từ rừng tự nhiên và một phần cành ngọn từ gỗ rừng trồng.

Tình hình thời tiết nắng nóng còn tiếp tục kéo dài nên công tác phòng chống cháy rừng vẫn luôn được các Ban quản lý rừng và các Công ty Lâm nghiệp đặc biệt quan tâm và cảnh báo. Vi phạm lâm luật trong tháng 5 năm 2019 là 38 vụ, giảm 18 vụ so cùng kỳ; trong đó: phá rừng trái phép 11 vụ, tăng 3 vụ, mua bán và vận chuyển lâm sản trái phép 7 vụ, giảm 10 vụ; tịch thu 4 xe máy và 1 phương tiện khác; 1,44 m3 gỗ các loại,  trong đó gồm 1,3 m3 gỗ tròn và 0,14 m3 gỗ xẻ các loại với tổng số tiền phạt hơn 498 triệu đồng.

c. Thủy sản

Sản lượng thuỷ sản tháng 5 năm 2019 ước đạt 10,59 nghìn tấn, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước, nâng tổng sản lượng thủy sản 5 tháng đầu năm 2019 đạt 43,25 nghìn tấn, giảm 1,7% so cùng kỳ, trong đó, sản lượng khai thác biển đạt 40,32 nghìn tấn, giảm 2,2% so cùng kỳ.

Tình hình thời tiết trên biển trong tháng 5 bắt đầu vụ cá Nam khả năng thuận lợi cho khai thác tại các vùng biển. Thời tiết ổn định, biển êm, tàu thuyền hầu hết đều xuất bến đánh bắt. Nhóm nghề vây ánh sáng (pha xúc) chuyên đánh bắt cá cơm, và nghề lưới vây ngày đánh bắt cá nục và các loại cá khác... tiếp tục là những nghề khai thác chính hoạt động có hiệu quả cao trong tháng. Các thuyền đánh bắt gần bờ hiện cũng tập trung khai thác với các nghề rê tầng đáy, câu, lưới vây, mành, ... đánh bắt cá nục, cá ngừ thường, thu ảo, hố,...Các loại cá và cá cơm xuất hiện rải rác từ ngư trường Ninh Thuận đến khu vực Kiên Giang tạo điều kiện cho các tàu hoạt động nghề pha xúc và vây rút tham gia khai thác.

Sản lượng thủy sản nuôi trồng 5 tháng đầu năm 2019 ước đạt 2,93 nghìn tấn, tăng 5,6% so cùng kỳ, trong đó sản lượng tôm đạt 1,54 nghìn tấn, tăng 0,7%, thủy sản khác đạt 1,26 nghìn tấn, tăng 13,4%.

Hoạt động sản xuất và kinh doanh tôm giống trong tháng có nhiều dấu hiệu tích cực, do bắt đầu vào vụ nuôi tôm thương phẩm chính tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long nên nhu cầu tôm giống cao, giá bán ổn định. Sản xuất giống trong tháng ước đạt 2.654 triệu con giống, tăng 34,2% so cùng kỳ; trong đó: giống tôm thẻ đạt 2.112 triệu con, tăng 29,9%; tôm sú đạt 528 triệu con, tăng 54,8% so cùng kỳ, ốc hương giống đạt 14 triệu con; nâng sản lượng giống thủy sản qua 5 tháng đầu năm 2019 đạt 14.764 triệu con, tăng 13,3% so cùng kỳ; trong đó giống tôm sú đạt 3.604 triệu con, tăng 14,7% và tôm thẻ đạt 11.091 triệu con, tăng 12,9%.

2. Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 5/2019 dự ước tăng 12% so tháng cùng kỳ 2018. Trong đó: chỉ số sản xuất ngành công nghiệp khai khoáng giảm 0,55%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tăng 3,43%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 54,96%; ngành cung cấp nước, xử lý rác thải tăng 8,79%. Tính chung 5 tháng, chỉ số sản xuất toàn ngành chỉ đạt 99,98% so cùng kỳ; trong đó: ngành khai khoáng giảm 11,91%, ngành chế biến, chế tạo giảm 3,91%, ngành sản xuất, phân phối điện tăng 19,17% và ngành cung cấp nước, xử lý rác thải tăng 11,95%.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu thực hiện trong tháng

- Sản xuất muối biển: dự báo thời tiết có mưa, vì vậy sản lư­ợng muối khai thác trong tháng ­ước đạt 61,2 nghìn tấn, giảm 8,1% so cùng kỳ. Tính chung 5 tháng ước đạt 154 nghìn tấn, giảm 29,5% so cùng kỳ.

- Bia đóng lon: ước đạt 5,5 triệu lít, tăng 3,4% so cùng kỳ. Tính chung 5 tháng bia đóng lon ước đạt 24,9 triệu lít, giảm 10% so cùng kỳ.

- Tôm đông lạnh: ước đạt 0,6 nghìn tấn các loại, giảm 6% so cùng kỳ. Tính chung sản xuất 5 tháng ước đạt 2 nghìn tấn, giảm 20,8% cùng kỳ.

- Hạt điều nhân: dự kiến trong tháng sản xuất đạt 425 tấn, tăng 122% so cùng kỳ. Tính chung 5 tháng ước đạt 1.876 tấn, tăng 49,1% so cùng kỳ.

- Sản xuất đường: vào tháng cuối vụ, sản lượng ước đạt 700 tấn, giảm 80% so cùng kỳ. Tính chung 5 tháng ước đạt 9.671 tấn, giảm 51,5% cùng kỳ. Do thiếu nguyên liệu đầu vào.

- Xi măng các loại: ước đạt 16,2 ngàn tấn, tăng 13,7% so cùng kỳ. Tính chung 5 tháng sản xuất xi măng ước đạt 73,3 ngàn tấn, tăng 16,2% cùng kỳ.

- Gạch nung các loại: ước đạt 10,3 triệu viên, tăng 5,7% so cùng kỳ. Tính chung 5 tháng sản xuất ước đạt 39,9 triệu viên, tăng 4,2% cùng kỳ.

- Điện sản xuất: ước đạt 202,5 triệu kwh, tăng 70,8% so tháng cùng kỳ, trong đó điện gió (3 dự án), điện mặt trời (7 dự án) dự kiến cung cấp 95,2 triệu kwh. Tính chung 5 tháng, sản xuất điện các loại ước đạt 740,6 triệu kwh, tăng 22,4% so cùng kỳ.

3. Đầu tư

Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý thực hiện trên địa bàn tỉnh trong tháng 5 năm 2019 đạt 78,9 tỷ đồng, giảm 23% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh đạt 54 tỷ đồng, giảm 40,6% , vốn ngân sách nhà nước cấp huyện đạt 24,9 tỷ đồng, tăng 1,5 % so cùng kỳ năm trước. Lũy kế 5 tháng đầu năm 2019 vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách nhà nước đạt 490,3 tỷ đồng, tăng 2,8%, trong đó vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh đạt 348,9 tỷ đồng, giảm 0,1%, vốn ngân sách nhà nước cấp huyện đạt 141,4 tỷ đồng, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm trước..

Vốn đầu tư tháng 5 năm 2019 thuộc nguồn ngân sách tỉnh chủ yếu thực hiện đầu tư các dự án như nâng cấp đường Phước Đại - Phước Trung huyện Bác Ái; dự án đường Ba Tháp-Suối Le - Phước Kháng, dự án đường tỉnh lộ 702 đến đèo Khánh Nhơn, dự án bố trí dân cư vùng sạt lở ven biển Cà Ná, huyện Thuận Nam; hệ thống kênh cấp II, III và nâng cấp tuyến đường quản lý Hồ Sông Biêu; Trường Trung cấp nghề tỉnh Ninh Thuận; hồ sinh thái Kiền Kiền; các tuyến đường giao thông nông thôn liên xã huyện Thuận Bắc.

4. Tài chính, ngân hàng

a. Tài chính

Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn 5 tháng đầu năm 2019 đạt 676 tỷ/2.700 tỷ, đạt 25% kế hoạch năm; trong đó: thu nội địa đạt 1.078 tỷ/2.400 tỷ, đạt 45% kế hoạch; Thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu: - 402 tỷ đồng (tổng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu: 936 tỷ đồng ,trừ hoàn thuế giá trị gia tăng 1.338 tỷ đồng).

Chi ngân sách tỉnh 2.059 tỷ/ 5.352 tỷ, đạt 38% kế hoạch, đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên theo kế hoạch được giao, giải quyết các chính sách an sinh xã hội, bảo đảm kinh phí chi phục vụ nhiệm vụ chính trị, quốc phòng của địa phương.

b. Ngân hàng

Theo báo cáo của Chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh ước tính đến cuối tháng 5 năm 2019 tổng nguồn vốn huy động đạt 14.150 tỷ đồng, tăng 1,01% so với tháng trước, tăng 6,95% so với cuối năm 2018 và đạt 43,4% kế hoạch năm. Trong đó: tiền gửi tiết kiệm từ dân cư đạt 9.910 tỷ đồng, chiếm 70,04% trong tổng nguồn huy động, tăng 0,47% so với tháng trước và tăng 9,23% so với cuối năm 2018; tiền gửi thanh toán đạt 3.980 tỷ đồng, chiếm 28,12%, tăng 1,76% so với tháng trước, tăng 1,22% so với cuối năm 2018; phát hành giấy tờ có giá 260 tỷ đồng, chiếm 1,84%, tăng 11,11% so tháng trước và tăng 15,56% so với cuối năm 2018.

Ước đến 30/5/2019 tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn  đạt 22.000 tỷ đồng, tăng 1,49% so với tháng trước, tăng 5,8% so cuối năm 2018 và đạt 25,8 % kế hoạch. Trong đó: Dư nợ tín dụng ngắn hạn đạt  10.329 tỷ đồng, chiếm 46,95% trong tổng dư nợ, tăng 1,89% so với tháng trước và tăng 5,43% so với cuối năm 2018; trung, dài hạn đạt 11.670 tỷ đồng, chiếm 53,05%, tăng 1,14% so với tháng trước và tăng 6,13% so với cuối năm 2018.

Ước đến 30/5/2019, tổng nợ xấu trên địa bàn đạt 158 tỷ đồng, chiếm 0,72% trong tổng dư nợ, tăng 0,003% so với tháng trước và tăng 0,12% so cuối năm 2018.

Hoạt động tiền tệ, tín dụng ngân hàng trên địa bàn trong tháng 5/2019 tiếp tục ổn định, an toàn và tăng trưởng. Các chỉ tiêu về huy động vốn và dư nợ tín dụng có bước tăng trưởng khá so với cuối năm 2018 (huy động tăng 6,95% và dư nợ tín dụng tăng 5,8%), Các TCTD trên địa bàn tiếp tục quan tâm dành nguồn vốn đầu tư cho các lĩnh vực ưu tiên và tích cực triển khai chương trình tín dụng trọng điểm theo chủ trương của Chính phủ, của Ngành và của tỉnh. Tín dụng chính sách được quan tâm thực hiện tốt, đáp ứng nhu cầu vay vốn của hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác, góp phần đảm bảo an sinh xã hội tại địa phương. Các TCTD  chấp hành nghiêm các quy định về tỷ giá và hoạt động ngoại hối, kinh doanh vàng; tăng cường thực hiện các biện pháp mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ; công tác quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng hoạt động ngân hàng và nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương trên địa bàn của NHNN tỉnh được thực hiện kịp thời, chặt chẽ, tuyệt đối an toàn, không để xảy ra sai sót, sự cố.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động Ngân hàng Ninh Thuận vẫn còn một số khó khăn, hạn chế: về chất lượng tín dụng, nợ xấu tuy trong tầm kiểm soát nhưng tiềm ẩn rủi ro phát sinh cao và nợ nhóm 4, nhóm 5 chiếm tỷ trọng lớn (trên 75%) do hoạt động một số DN có dư nợ lớn tiếp tục gặp khó khăn, chậm khôi phục, phá sản; công tác xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ chậm; cho vay phát triển nông nghiệp sạch, công nghệ cao kết quả còn thấp.

5. Thương mại, giá cả và dịch vụ

Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 5 năm 2019 đạt 1.871,1 tỷ đồng, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm 2018. Tính chung 5 tháng đầu năm 2019, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 9.261,8 tỷ đồng, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm 2018.

a. Bán lẻ hàng hóa

Ước tính tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 5 năm 2019 đạt 1.430,3 tỷ đồng, tăng 14,9 so tháng cùng kỳ, nâng tổng mức bán lẻ hàng hóa 5 tháng đầu năm 2019 đạt 7.055 tỷ đồng, tăng 13,7%  so với cùng kỳ năm trước: Kinh tế Nhà nước đạt 361,2 tỷ đồng, tăng 11% so cùng kỳ; Kinh tế ngoài Nhà nước đạt 6.693,8 tỷ đồng, tăng 13,8% so cùng kỳ. Một số ngành hàng chiếm tỷ trọng cao như: Lương thực, thực phẩm chiếm 42,8%, tăng13,5% so với cùng kỳ năm trước; Xăng dầu các loại chiếm 13,5%, tăng14,9%; Gỗ và vật liệu xây dựng chiếm 9,6%, tăng11,7%; Đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình chiếm 7,1%, tăng16,1%

Trong tháng 05 năm 2019 tình hình tổng mức bán ra của tất cả các thành phần kinh tế đều có xu hướng tăng lên đặc biệt là khu vực tư nhân và cá thể do nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ của người dân tiếp tục tăng. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh thương mại tiếp tục tổ chức bán hàng khuyến mại nhằm kích cầu tiêu dùng, hoạt động xây dựng trong dân cư vẫn tăng khá qua đó góp phần làm tăng doanh thu hoạt động thương nghiệp.

b. Dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành

Doanh thu lưu trú, ăn uống và dịch vụ lữ hành tháng 5/2019 ước đạt 280,6 tỷ đồng, tăng 13,9% so tháng cùng kỳ. Nâng tổng số 5 tháng đầu năm 2019 đạt 1.407,6 tỷ đồng, tăng 15,2% so cùng kỳ. Trong đó: Kinh tế ngoài Nhà nước đạt 1.328,2 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 94,4% và tăng 14,9% so cùng kỳ; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 79,4 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 5,6% và tăng 20,4%.

Năm nay, lượng du khách đến vui chơi, nghỉ dưỡng tại tỉnh tăng cao. Lễ hội Nho và Vang Ninh Thuận 2019 được tổ chức với các chuỗi hoạt động sôi nổi diễn ra vào đúng dịp Lễ 30/4 và 1/5 làm cho hoạt động du lịch tháng 5/2019 trên địa bàn tỉnh tăng rất cao so với các năm, trong những ngày này lượng khách đổ về tấp nập, các cơ sở lưu trú cháy phòng từ khách sạn đến các nhà nghỉ mini, tại các điểm tham quan, dịch vụ sầm uất, nhộn nhịp… đẩy mạnh hình ảnh du lịch địa phương đến với bạn bè trong và ngoài nước.

c. Chỉ số giá tiêu dùng

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 05 năm 2019 tăng 0,73% so với tháng trước; tăng 3,25% so với cùng kỳ năm trước; tăng 1,44% so với tháng 12 năm trước. CPI bình quân năm tháng đầu năm 2019 so với cùng kỳ năm 2018 tăng 2,84%.

Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính; 07 nhóm có chỉ số giá tăng với mức tăng như sau: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,90%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,25%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,17%; thiết bị đồ dùng gia đình tăng 0,77%;  giao thông tăng 2,00%; văn hóa giải trí và du lịch tăng 0,08%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,32%. Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép giảm 0,15%. 03 nhóm có chỉ số tương đối ổn định là nhóm thuốc và dịch vụ y tế; nhóm bưu chính viễn thông và nhóm giáo dục.

CPI tháng 5 năm 2019 tăng do một số mặt hàng thực phẩm thiết yếu tăng; giá điện tăng theo Quyết định số 648/QĐ-BCT và có hiệu lực từ ngày 20/03/2019, cùng với việc sử dụng điện, nước nhiều trong mùa nắng nóng làm chỉ số nhóm điện sinh hoạt tăng 5,13%; giá xăng, dầu được điều chỉnh tăng vào ngày 02/5/2019 và giảm vào ngày 17/05/2019, tính bình quân trong tháng thì chỉ số nhóm này vẫn tăng cao so với tháng trước; giá gas tăng 2.000 đồng/bình 12 kg các loại từ ngày 01/05/2019; hiện nay địa phương đang thu hút nhiều dự án đầu tư như năng lượng tái tạo, du lịch nên nhu cầu về công xây dựng tăng làm cho giá một số dịch vụ trong nhóm này tăng, góp phần làm CPI tháng này tăng cao so với tháng trước.

d. Vận tải hành khách và hàng hóa

Doanh thu vận tải tháng 5 năm 2019 ước đạt 109,5 tỷ đồng, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm 2018; Nâng tổng số doanh thu 5 tháng đầu năm 2019 ước đạt 505,9 tỷ đồng, tăng 12,8% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó doanh thu vận tải hàng hóa đạt 317,5 tỷ đồng, tăng 11,4% và doanh thu vận tải hành khách đạt 161,3 tỷ đồng, tăng 12,3% so với cùng kỳ năm 2018.

Vận chuyển hành khách tháng 5 ước đạt 589,8  ngàn lượt hành khách, tăng 11,6%, nâng tổng số 5 tháng đầu năm 2019 đạt 2.929 ngàn lượt hành khách, tăng 11,7%  so với cùng kỳ năm 2018 ;luân chuyển hành khách tháng 5 đạt 46,7 triệu hk.km, tăng 10,5% , nâng tổng số 5 tháng đầu năm 2019 đạt 230,7 triệu hk.km, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm 2018.

Vận chuyển hàng hóa tháng 5 đạt 636 ngàn tấn, tăng 11,8%, nâng tổng số 5 tháng đầu năm 2019 đạt 2.994,4 ngàn tấn, tăng 10,3%; luân chuyển hàng hóa tháng 5 đạt 48 triệu tấn.km, tăng 11,3%, nâng tồng số 5 tháng đầu năm 2019 đạt 228,9 triệu hk.km, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2018.

Nhìn chung tình hình hoạt động vận tải tháng 5 năm 2019 đáp ứng nhu cầu đi lại, tham quan của nhân dân cũng như vận chuyển hàng hóa trong sản xuất kinh doanh. Các ngành chức năng tăng cường tuần tra kiểm soát các phương tiện vi phạm đón trả khách sai quy định, đảm bảo việc đi lại trong nhân dân được thuận lợi, an toàn.

6. Một số vấn đề xã hội

a. Đời sống, chính sách xã hội

5 tháng đầu năm 2019 đã giải quyết việc làm mới 4.781 lao động/15.500 lao động đạt 30,8% kế hoạch giao. Trong đó: (lao động trong tỉnh: 1.489 lao động; lao động ngoài tỉnh: 3.200 lao động; xuất khẩu lao động: 92 lao động/150 lao động đạt 61,3% kế hoạch giao).Tăng cường công tác quản lý hoạt động dịch vụ việc làm tại các địa phương; thông báo tuyển dụng lao động đi học tập và làm việc ngành điều dưỡng viên tại Cộng hòa liên bang Đức đợt 2/2019; đã tổ chức tuyển mới đào tạo nghề cho 2.133/8.500 người đạt 25,1% so với kế hoạch (Trong đó dạy nghề sơ cấp và đào tạo nghề dưới 3 tháng 2.133 người; trình độ Trung cấp, Cao đẳng tháng 09/2019 mới tuyển sinh). Các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp đã triển khai thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Công tác tác chăm sóc người có công đã ngày càng đi vào nền nếp và đạt được nhiều kết quả nhất định;. Công tác an sinh xã hội được bảo đảm, giảm nghèo đi vào thực chất với các hoạt động thiết thực nhằm đảm bảo “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Các chính sách thường xuyên cho hộ nghèo, hộ cận nghèo như: y tế, giáo dục, nhà ở, ưu đãi tín dụng, khuyến nông, khuyến ngư và khuyến lâm, hỗ trợ phát triển sản xuất, xây dựng mô hình giảm nghèo,… đã được triển khai đầy đủ, kịp thời, hiệu quả bảo đảm đúng đối tượng. Tổ chức lễ phát động Tháng hành động An toàn vệ sinh lao động năm 2019. Tổ chức Hội nghị chuyên đề "Công tác cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện năm 2019, tổng số học viên hiện đang quản lý tại cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh: 93 học viên/05 nữ (Trong đó: Học viên tự nguyện: 91/05 Nữ; trong tỉnh: 46/04 Nữ; ngoài tỉnh: 45/01 Nữ; bắt buộc: Trong tỉnh: 02 Nam).

b. Hoạt động văn hóa

Tổ chức tuyên truyền các ngày lễ lớn; tiếp tục đẩy mạnh, tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao phục vụ Nhân dân và kỷ niệm 129 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2019); kỷ niệm 65 năm chiến thắng Điện Biên Phủ  (07/05/1954-07/05/2019), lồng ghép tuyên truyền Lễ hội Nho và Vang Ninh Thuận năm 2019, Tết Ramưwan của đồng bào Chăm và tuyên truyền về biển, đảo; biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Lào, Việt Nam – Campuchia…; Tuyên truyền các cấp, các ngành triển khai kế hoạch, chương trình hành động của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng Đảng, Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị gắn với tuyên truyền 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1979-2019); Hoàn thành công tác phối hợp tổ chức thành công các chuỗi hoạt động trong Lễ hội Nho và Vang Ninh Thuận 2019 đúng với mục đích, yêu cầu của tỉnh đề ra “quảng bá được hình ảnh, quê hương và con người Ninh Thuận; giới thiệu các sản phẩm đặc thù, riêng có của Ninh Thuận đến với du khách trong và ngoài nước góp phần thúc đẩy phát triển du lịch”; đặc biệt thực hiện tốt công tác chỉ đạo, tuyên truyền và vận động nhân dân, doanh nghiệp đảm bảo vệ sinh môi trường, an ninh trật tự.

c. Giáo dục

Chuẩn bị các điều kiện, hướng dẫn tổ chức kỳ thi Tuyển sinh lớp 10 THPT và THPT chuyên năm học 2019-2020, kỳ thi Trung học phổ thông quốc gia năm 2019 theo quy chế của Bộ Giáo dục và Đào tạo và phương án, kế hoạch phê duyệt của Ủy ban nhân dân tỉnh; hoàn thiện dự thảo “Đề án sáp nhập Trường Cao đẳng sư phạm Ninh Thuận vào Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh” theo chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh đảm bảo tiến độ, chất lượng, hiệu quả; đẩy nhanh tiến độ dự án Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn (CS2).

d.Tình hình dịch bệnh

5 tháng đầu năm 2019 (tính đến ngày 16/5/2019) bệnh tay chân miệng 64 trường hợp, tăng 8,5% so với cùng kỳ; Sốt xuất huyết 706 trường hợp, tăng 8 lần so với cùng kỳ. Một số bệnh thường mắc tản phát như Bệnh lỵ 63 ca, tăng 23 ca; Thủy đậu 29 ca, giảm 26 ca; Tiêu chảy 645 ca, tăng 97 ca so với cùng kỳ 2018. Không có tử vong do bệnh dịch.Thực hiện giám sát chặt chẽ nhằm phát hiện sớm những trường hợp mắc mới, khống chế kịp thời. Phối hợp tổ chức truyền thông giáo dục sức khỏe thông qua các phương tiện và truyền thông trực tiếp.

e. Tình hình cháy, nổ

Trong tháng 5 năm 2019 trên địa bàn tỉnh không xảy ra cháy, nổ. Lũy kế 5 tháng  đầu năm 2019 xảy ra 05 vụ cháy nhà dân, giảm 4 vụ so cùng kỳ; không thiệt hại về người, tài sản thiệt hại khoảng 2,8 tỷ đồng, giảm 300 triệu so cùng kỳ.

g. An toàn giao thông  (Số liệu tính từ ngày 16 tháng 4 năm 2019 đến ngày 15 tháng 5 năm 2019)

- TNGT đường bộ: Xảy ra 04 vụ (rất nghiêm trọng 01 vụ, nghiêm trọng 03 vụ); làm chết 05 người, bị thương 02 người; thiệt hại tài sản khoảng 06 triệu đồng. So với tháng 05/2018: Số vụ giảm 05 vụ (-55,6%); số người chết giảm 06 người (-54,5%); số người bị thương giảm 01 người (-33,3%); thiệt hại tài sản giảm 07 triệu đồng (-53,9%).

- VCGT đường bộ: Xảy ra 07 vụ; làm bị thương nhẹ 07 người; thiệt hại tài sản 8,7 triệu đồng. So với tháng 5/2018: Số vụ giảm 03 vụ (-30%); số người bị thương giảm 05 người (-41,7%); thiệt hại tài sản giảm 12,5 triệu đồng (-59%).

- TNGT và VCGT đường sắt, đường thủy: Không xảy ra. (Cùng kỳ tháng 5/2018 xảy ra 02 vụ, làm chết 01 người, bị thương 01 người).

Tính chung 5 tháng năm 2019 (từ ngày 16/12/2018 đến ngày 15/5/2019) trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận xảy ra 57 vụ tai nạn giao thông, làm chết 20 người, bị thương 63 người. So với cùng kỳ năm trước, giảm 3 tiêu chí, số vụ giảm 42 vụ, số người chết giảm 12 người, số người bị thương giảm 51 người../.

Thống kê truy cập
  • Đang online: 2
  • Hôm nay: 69
  • Trong tuần: 5663
  • Tất cả: 972317

Copyright © 2016 CỤC THỐNG KÊ TỈNH NINH THUẬN

ĐƯỜNG 16 THÁNG 4, PHƯỜNG MỸ HẢI,  TP. PHAN RANG - THÁP CHÀM, NINH THUẬN

Điện thoại: 0259 3 830318  * Email: ninhthuan@gso.gov.vn