31-03-2021
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Thuận quý I năm 2021
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản
xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản quý I/2021 thuận lợi do có nguồn nước tưới ổn
định, dịch bệnh nghiêm trọng không xảy ra, tiêu thụ nông sản tốt. Sản xuất lâm nghiệp phát triển ổn định;
sản xuất thủy sản quý I/2021 tăng cao hơn cùng kỳ năm trước.
a/ Nông nghiệp
Kết thúc vụ Đông xuân
2021, cả tỉnh gieo trồng được 30.556,3 ha cây hàng năm, bằng 99,1% kế hoạch,
tăng 20,9% so Đông xuân 2020. Cây trồng đang được chăm sóc phát triển tốt; lượng
nước tại các hồ chứa trong tỉnh và hồ Đơn Dương ổn định đủ để sản xuất tưới. Trong
đó, diện tích lúa Đông xuân đạt 17.388,7 ha, tăng 45,2% so với cùng kỳ năm trước.
Dự ước năng suất lúa Đông xuân năm nay đạt 64,6 tạ/ ha, bằng 96,9% so cùng kỳ
năm ngoái do có một số diện tích lúa mở rộng tại vùng chưa đảm bảo nước tưới.
Ngoài cây lúa, cả tỉnh đã gieo trồng được 2.734,3
ha ngô, tăng 15,3% so cùng kỳ năm trước; 61,6 ha khoai lang, tăng 24,5%; 268,4
ha lạc, tăng 7,2%; 4.076,6 ha rau đậu hoa các loại, tăng 5,7%...
Chăn nuôi nhìn chung ổn định. Ước
tính tháng 3/2021, đàn trâu cả tỉnh tăng 0,4% so với cùng thời điểm năm trước;
đàn bò tăng 0,2%. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng trong quý I/2021 đạt
41,1 tấn, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng
đạt 1.571,2 tấn, tăng 16,2%. Chăn nuôi lợn có xu hướng tăng dần trở lại. Ước
tính tổng đàn lợn cả tỉnh tháng Ba tăng 2,3% so với cùng thời điểm năm 2020; sản
lượng thịt lợn hơi xuất chuồng quý I/2021 đạt 4.414 tấn, tăng 2,5% so với cùng
kỳ năm trước. Chăn nuôi dê cừu có xu
hướng giảm do thu hẹp đồng cỏ tự nhiên dành cho các dự án năng lượng sạch. Ước
tính đàn dê cừu giảm 14,7%; sản lượng thịt dê cừu hơi xuất chuồng đạt
1.142,2 tấn, tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước.
Chăn nuôi gia cầm tiếp tục phát triển do các hộ chăn nuôi mở rộng quy mô. Ước tính tổng
đàn gia cầm của cả nước tháng Ba tăng 4,3% so với cùng thời điểm năm
2020; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng quý I/2021 đạt 1.515,6 tấn, giảm
0,3% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng trứng gia cầm đạt 16,586 triệu quả,
tăng 6,1%.
b/ Lâm nghiệp
Tình hình lâm nghiệp của tỉnh
trong quý I/2021 chủ yếu tập trung vào công tác chăm sóc rừng
trồng trên diện tích 1.072,56 ha. Trong quý, sản lượng
gỗ khai thác đạt 01 nghìn m3, tăng 18,3%; sản
lượng củi khai thác đạt 6,5 nghìn ste, tăng 81,1%. Diện
tích rừng bị thiệt hại quý I/2021 là 6,7 ha, gấp 7,4 lần so với cùng kỳ năm trước,
toàn bộ là diện tích rừng bị chặt, phá.
c/
Thuỷ sản
Tính chung quý I/2021, tổng sản lượng thủy sản ước
tính đạt 22,5 nghìn tấn, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng
thủy sản nuôi trồng đạt 1,3 nghìn tấn, tăng 6,9%; sản lượng thủy sản khai thác
đạt 21,2 nghìn tấn, tăng 5% (chủ yếu là khai thác biển).
Sản xuất giống thủy sản quý I/2021 ước đạt 12,8
tỷ con (chủ yếu là tôm giống), tăng
26,7% so cùng kỳ năm ngoái do nhu cầu các tỉnh tăng trong khi hiện nay tôm giống
Ninh Thuận đã phát triển có thương hiệu, công tác kiểm dịch chặt chẽ, công khai
thông tin trên website để người mua nắm bắt.
2. Sản
xuất công nghiệp
Ngành
công nghiệp quý I/2021 dù chịu ảnh hưởng từ dịch Covid-19 nhưng chỉ số sản xuất
công nghiệp (IIP) đạt mức tăng trưởng cao 46,53% so với cùng kỳ năm trước, mức
cao thứ hai trong 5 năm qua; trong đó sản xuất và phân phối điện tiếp tục làm đầu
tàu tăng trưởng; ngành khai khoáng giảm sâu sau ba năm tăng liên tiếp, do ngành
khai thác muối biển giảm mạnh vì tiêu thụ khó, lượng tồn kho lớn và giá bán giảm
mạnh.
Chỉ số IIP toàn ngành công nghiệp quý I/2021 ước
tính tăng 46,53% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp sản xuất
và phân phối điện tiếp tục là đầu tàu của toàn ngành với mức tăng 80,12%, đóng
góp tăng 45,2 điểm phần trăm vào chỉ số chung toàn ngành;
ngành chế biến, chế tạo tăng 11,26% so cùng kỳ, đóng
góp tăng 3,62 điểm phần trăm; ngành cung cấp
nước và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,35%; ngành khai
khoáng giảm 39,58%. Lượng muối tồn kho của
năm trước còn nhiều (đến cuối tháng 02/2021 tồn kho gần 300 ngàn tấn các loại),
đồng thời giá muối tiêu thụ giảm 25% so cùng kỳ (quý I/2020 bình quân 773 đ/kg;
quý I/2021 bình quân 580 đ/kg) là nguyên nhân làm cho ngành khai thác muối biển
giảm 57,33% so
cùng kỳ năm trước.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng thấp hoặc
giảm so với cùng kỳ: Muối biển giảm 57,3%; Bộ com-lê, quần áo đồng bộ, áo
jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn không dệt kim hoặc đan móc
giảm 33,8%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) giảm 20%; Tinh bột sắn,
bột dong riềng giảm 17,3%; Hạt điều khô giảm 14,9%; Nước yến và nước bổ dưỡng
khác giảm 10,6%; Phân vi sinh giảm 9,1%; Các loại đá lót, đá lót lề đường và
phiến đá lót đường, bằng đá tự nhiên (trừ đá phiến) giảm 9,1%. Một số sản phẩm
công nghiệp chủ yếu năm nay tăng cao so với năm trước: Tinh bột khác tăng
93,6%; Bia đóng lon tăng 89,5%; Điện gió tăng 89,9%; Điện mặt trời tăng 86,3%;
Thủy điện tăng 48,6%; Đường RS tăng 53,3%; Thạch nha đam tăng 35,6%; Sợi xe từ
các loại sợi tự nhiên: bông, đay, lanh, xơ dừa, cói ... tăng 26,4%.
3. Tình hình đăng ký doanh
nghiệp
Khu vực
doanh nghiệp gặp khó khăn trong quý I/2021 do chịu ảnh hưởng trực tiếp từ dịch
Covid-19. Trong 3 tháng đầu năm, cả tỉnh có 76 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới,
giảm 26,9% so với cùng kỳ năm trước; đáng chú ý là số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn
lên tới 92 doanh nghiệp, tăng 91,7%. Điểm sáng là số vốn đăng ký trong quý I
tăng cao 25,5%, trong đó vốn đăng ký mới tăng 85,5%.
Tính đến ngày 15/3/2021 có 76 doanh nghiệp thành
lập mới, bằng
73,1% so cùng kỳ, trong đó một số lĩnh vực giảm sâu, như: sản xuất điện, giảm
100% (0/9 DN); xây dựng, giảm 48% (13/25 DN); bán buôn, bán lẻ, giảm 23,5%
(13/17 DN) và công nghiệp, giảm 14,3% (6/7 DN). Tổng số doanh nghiệp đang hoạt
động đến 15/3/2021 có 3.724 doanh nghiệp, tổng vốn đăng ký 72.097
tỷ đồng. Tuy số doanh nghiệp thành lập mới trong quý I/2021 giảm, nhưng tổng vốn đăng ký tăng cao, trên 2.594 tỷ đồng, tăng 25,5% so cùng kỳ (trong
đó vốn đăng ký mới 855 tỷ đồng, tăng 85,5%, vốn đăng ký bổ sung 1.739 tỷ đồng,
tăng 8,3%).
Do ảnh hưởng đại dịch Covid-19 kéo dài, số
doanh nghiệp đăng ký thành lập mới giảm, đồng thời số doanh nghiệp giải thể, tạm
ngừng hoạt động tăng. Trong quý I/2021, có 21 doanh nghiệp đã hoàn tất thủ tục
giải thể, tăng 75% so cùng kỳ và có 92 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, tăng
91,7% so cùng kỳ.
4. Đầu tư
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện quý I/2021 giảm
48,2% so với cùng kỳ năm 2020, mức giảm mạnh nhất trong hai năm gần đây do ảnh
hưởng tiêu cực của dịch Covid-19 đến các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Vốn đầu tư phát triển thực hiện quý I năm 2021 của
tỉnh ước đạt 2.402,4 tỷ đồng, giảm 48,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó:
nguồn vốn nhà nước 275,3 tỷ đồng, giảm 36,5%; vốn ngoài nhà nước 1.513,7 tỷ đồng,
giảm 60,9%; vốn đầu tư nước ngoài 613,4 tỷ đồng, tăng 84,6%. Nguyên nhân giảm
chủ yếu do đầu tư của khu vực ngoài nhà nước giảm mạnh so với cùng kỳ.
5. Tài chính, Ngân hàng
a/ Tài chính
Tình hình thu ngân sách tỉnh trong quý I/2021 đạt tốt
do dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh được
kiểm soát cùng với đóng góp quan trọng từ các dự án năng lượng tái tạo. Chi ngân sách Nhà nước tập trung bảo đảm các nhu cầu phát triển kinh tế
- xã hội, quốc phòng, an ninh, y tế và quản lý Nhà nước.
Tổng thu ngân sách tỉnh (ước đến ngày 31/3/2021) đạt 1.042 tỷ đồng
và đạt 26,7% dự toán HĐND tỉnh giao. Trong đó: Thu nội địa 801 tỷ đồng, đạt
29,7% dự toán được HĐND tỉnh giao; Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 241 tỷ đồng,
đạt 20,1% dự toán HĐND tỉnh giao.
Tổng chi ngân sách tỉnh
ước đạt 1.476 tỷ đồng, đạt 26% dự toán HĐND tỉnh giao. Nhìn
chung, công tác chi ngân sách của tỉnh đảm bảo kế hoạch đề ra và cơ bản đáp ứng
việc điều hành thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội địa phương.
b/ Ngân hàng
Hoạt
động tiền tệ, ngân hàng trên địa bàn trong quý I/2021 tiếp tục ổn định và an
toàn. Dư nợ tín dụng có sự tăng trưởng so với cuối năm 2020 (tăng 1,39%). Tín dụng
chính sách được quan tâm thực hiện tốt, đáp ứng nhu cầu vay vốn của hộ nghèo và
các đối tượng chính sách khác.
Huy
động vốn: ước đến 31/3/2021, huy động vốn đạt
16.700 tỷ đồng, giảm 78 tỷ đồng (-0,46%) so với cuối năm 2020, bằng 88,8% kế
hoạch năm 2021. Hoạt động
tín dụng: ước đạt 30.800 tỷ đồng, tăng 421 tỷ
đồng (+1,39%)
so với cuối năm 2020, bằng 88,2% kế hoạch. Chất lượng tín dụng: Ước đến cuối quý I/2021,
dư nợ xấu trên địa bàn là 200 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 0,65%
so với tổng dư nợ, tăng 0,01% so với tỷ lệ nợ xấu cuối năm 2020 (số tuyệt đối
tăng 5,2 tỷ
đồng).
6.
Thương mại, giá cả, dịch vụ
a/ Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng
Tổng
mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiếp tục đà phục hồi tăng trưởng dù
tình hình dịch bệnh Covid-19 vẫn tiếp diễn nghiêm trọng ở một số tỉnh. Tính
chung quý I/2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng
12,4%, mức tăng cao nhất của một quý kể từ năm 2020.
Tính chung quý I/2021, tổng mức bán lẻ hàng
hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 6.483,2 tỷ
đồng, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm trước.
Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng
hóa quý I năm nay ước đạt 5.167,3 tỷ đồng, chiếm 79,7% tổng mức và tăng
12,7% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 18,1%;
xăng, dầu các loại tăng 15,3%; hàng may mặc tăng 14,9%; lương thực, thực phẩm
tăng 13,6%. Trong tỉnh không có ca lây nhiễm Covid-19 cộng đồng nên người dân
yên tâm mua sắm với lượng hàng hóa dồi dào, không có tình trạng thiếu hàng, sốt giá. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 812,3 tỷ đồng, chiếm
12,5% và tăng 8,5%. Doanh thu du lịch lữ hành đạt 0,4 tỷ đồng, chiếm
0,01% và giảm 20,3%, do tình hình dịch bệnh Covid-19 trong nước và thế
giới vẫn đang diễn biến phức tạp làm nhu cầu du lịch của người dân giảm do lo ngại dịch bệnh lây
lan. Doanh thu dịch vụ khác đạt 503,2 tỷ đồng, chiếm
7,8% và tăng 15,9%.
b/ Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ
số giá đô la Mỹ
Giá
các mặt hàng thực phẩm và giá vé xe khách giảm là những nguyên nhân chính làm
chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3/2021 giảm 0,44% so với tháng trước, đây là mức
chỉ số CPI thấp thứ hai trong giai đoạn 2017-2021; và chỉ số giá tiêu dùng
bình quân quý I/2021 so với cùng kỳ năm trước đạt mức tăng thấp nhất trong
5 năm qua (năm 2017 tăng 4,92%; năm 2018 tăng 3,4%; năm 2019 tăng 2,61%; năm 2020
tăng 6,07%; năm 2021 tăng 2,41%), tăng 2,41%.
Trong mức giảm 0,44% của chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) tháng 3/2021 so với tháng trước có 5/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số
giá giảm, trong đó: nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm nhiều nhất với 1,61%,
chủ yếu do sau Tết Nguyên đán giá các mặt hàng thực phẩm trở lại bình thường và ăn
uống ngoài gia đình giảm; nhóm Đồ uống và thuốc lá giảm 0,09%; nhóm May
mặc, mũ nón và giày dép giảm 0,05%; nhóm Văn hoá, giải trí và du lịch giảm
0,04%; nhóm Hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,04%.
CPI bình quân quý I/2021 so với cùng kỳ năm 2020
tăng 2,41%; CPI tháng 3/2021 tăng 0,66% so với tháng 12/2020 và tăng 2,93% so với
cùng kỳ năm 2020. CPI quý I năm nay tăng so với cùng kỳ năm trước do một số
nguyên nhân chủ yếu: (1) Giá gạo trong nước tăng theo giá gạo xuất khẩu và nhu cầu tiêu dùng gạo nếp và gạo tẻ ngon trong dịp Tết
Nguyên đán tăng cao làm cho giá gạo quý I
năm 2021 tăng 27,11% so với cùng kỳ năm trước, góp phần làm CPI chung tăng 1,09
điểm phần trăm; (2) Giá các mặt hàng thực phẩm quý I năm 2021 tăng
2,56% so với cùng kỳ năm trước, làm CPI tăng 0,63 điểm phần trăm,
trong đó giá thịt gia súc tăng 2,24%, theo đó giá thịt
chế biến tăng 19,17%, dầu mỡ tăng 6,34%, thủy sản chế biến tăng 10,55%; (3) Ăn
uống ngoài gia đình tăng 7,48% do nguyên vật liệu đầu vào tăng; (4) Giá
gas trong nước biến động theo giá gas thế giới, bình quân quý I năm 2021 giá
gas tăng 6,93% so với cùng kỳ năm trước.
Do ảnh hưởng chung của giá vàng, đô la Mỹ trong
nước và thế giới; So với bình quân cùng kỳ năm 2020, chỉ số giá vàng quý I năm
2021 tăng 22,83%, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 1,46%. Giá vàng 9999 hiện ở mức
5.140.000 đồng/chỉ , giá Đô la Mỹ ở mức 23.930 đồng/USD.
c/ Vận tải hành khách và hàng hóa
Tình hình phức tạp của dịch bệnh Covid-19 tác động trực
tiếp tới hoạt động vận tải quý I/2021, trong đó vận tải hành khách chịu ảnh hưởng
lớn khi lượng khách vận chuyển tháng Ba giảm 3,1% so với tháng trước, tính
chung 3 tháng giảm 12,4% do tác động của các vận động, khuyến cáo về phòng chống
dịch bệnh.
Vận tải hành khách quý I năm nay vận tải hành
khách đạt 0,9 triệu lượt khách, giảm 12,4% so với cùng kỳ năm trước và luân
chuyển 70,4 triệu lượt khách.km, giảm 13,3%.
Vận tải hàng hóa quý I năm nay vận tải hàng hóa
ước tính đạt 1,6 triệu tấn, tăng 7% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển
118,9 triệu tấn.km, tăng 6,2%.
d/ Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Tổng
kim ngạch xuất, nhập khẩu tháng Ba ước tính đạt 115,1 triệu USD, tăng 3,7 lần
so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng
hóa đạt 200 triệu USD, tăng 159,5%, trong đó xuất khẩu đạt 23,2 triệu USD, tăng
29,5%; nhập khẩu đạt 176,8 triệu USD, tăng 198,9%. Nhập siêu quý I năm nay đạt
153,6 triệu USD.
Xuất khẩu hàng hóa : Tính chung quý I/2021, kim
ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 23,2 triệu USD, tăng 29,5% so cùng kỳ và đạt
23,2% so kế hoạch (100 triệu USD). Các mặt hàng xuất khẩu gồm: Thủy sản ước đạt
11,4 triệu USD, tăng 2,3 lần so cùng kỳ; nhân điều ước đạt 5,8 triệu USD, tăng
11,9%; may mặc ước đạt 0,02 triệu USD, giảm 97%; mây tre ước đạt 0,04 triệu
USD, giảm 20,4%; khăn bông ước đạt 5,2 triệu USD, giảm 32,6%; nha đam ước đạt
0,7 triệu USD, tăng 3,6 lần. Thị trường tiêu thụ chủ yếu là Mỹ, Nhật Bản,
Canada, Đức, Pháp, Trung Quốc, Hong Kong, Hà Lan, Anh, Singapore, Hàn Quốc,....
Nhập khẩu hàng hóa: Quý
I/2021 kim ngạch nhập khẩu ước đạt 176,8 triệu USD, tăng
198,9% so cùng kỳ và
đạt
51,2% so kế hoạch (345 triệu USD). Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu máy móc, thiết bị, dụng
cụ phụ tùng phục vụ cho các dự án điện mặt trời,
điện gió đang triển khai trên địa bàn tỉnh.
7.
Một số vấn đề xã hội
a/ Lao
động, việc làm
Tình hình lao động, việc làm quý I/2021 chịu ảnh hưởng tiêu cực của dịch
Covid-19, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động thấp, tỷ lệ thiếu việc làm của lực
lượng lao động trong độ tuổi tăng do nhu cầu thị trường lao động sụt giảm.
Triển khai các hoạt động nhằm đẩy mạnh công tác đưa người lao động đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2021 và tổ chức
triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp để giải quyết viêc làm mới và xuất
khẩu lao động năm 2021. Đã giải quyết
việc làm mới 4.264 lao động/16.000 lao động, đạt 26,65% kế hoạch giao, giảm 16,9% so với cùng kỳ năm trước (riêng xuất khẩu lao động
giảm 75%).
b/ Đời sống dân cư, công tác an sinh xã hội
Nhìn chung, tình hình đời sống nhân dân trên địa
bàn tỉnh Ninh Thuận trong quý I năm 2021 cơ bản ổn định, sản xuất ở tất cả các
ngành, lĩnh vực đều đạt kết quả tích cực. Các chính sách an sinh xã hội được
quan tâm và triển khai đầy đủ, kịp thời; các
hoạt động phục vụ Tết Nguyên đán Tân Sửu được tổ chức khá chu đáo, an
toàn và tiết kiệm. Công tác phòng chống dịch Covid-19 được thực hiện đồng bộ,
quyết liệt. An ninh chính trị, trật tự xã hội được giữ vững. So với cùng kỳ năm
trước, nhìn chung đời sống của các tầng lớp dân cư được duy trì ổn định.
Trong quý I
/2021, tỉnh tập trung chăm lo tổ chức các hoạt động thăm hỏi và tặng quà nhân dịp
Tết Nguyên đán Tân Sửu năm 2021 cho các đối tượng chính sách, người có công với cách mạng;
người nghèo; bảo trợ xã hội và trẻ em... trên địa bàn tỉnh đảm bảo
đầy đủ, kịp thời và đúng đối tượng.
c/ Giáo dục
Trong quý I, tỉnh tổ
chức các hoạt động giáo dục như: Tổ chức Lễ Tuyên dương học sinh giỏi đạt giải
quốc gia năm học 2020-2021; Kỳ thi chọn học sinh giỏi THCS, THPT cấp tỉnh năm học
2020-2021 (có 448 học sinh cấp THPT và 333 học sinh cấp THCS dự thi ở 09 môn
thi: Ngữ Văn, Toán, Vật Lý, Hóa học, Sinh học, Địa lý, Sử, Tin học, Tiếng Anh),
tăng 64 học sinh so với năm học 2019-2020; cuộc thi Khoa học kỹ thuật dành cho
học sinh phổ thông cấp tỉnh năm học 2020-2021 với số lượng dự án (sản phẩm)
tham gia là 34 dự án (cấp THCS 04; cấp THPT 30), số dự án đạt giải 26 (cấp THCS
có 02 giải Nhì, 01 giải Ba; cấp THPT có 02 giải Nhất, 04 giải Nhì, 06 giải Ba,
11 giải Tư); có 02 dự án cấp THPT tham gia cấp quốc gia do Bộ GDĐT tổ chức tại
TP Huế trong tháng 3/2021; phối hợp với Tỉnh Đoàn tổ chức Hội thi trực tuyến cấp
tỉnh Olympic Tiếng Anh trong học sinh, sinh viên năm 2021; tổ chức Hội thi Giáo
viên giỏi cấp học mầm non cấp tỉnh năm học 2020-2021, tổ chức 02 vòng thi thuyết
trình và vòng thi thực hành.
d/ Chăm sóc sức khỏe cộng đồng
Phòng chống dịch Covid-19: Tính đến
nay, số bệnh nhân mắc Covid-19 được phát hiện tại tỉnh là 11; Trong đó BN61,
BN67 và BN1221 được phát hiện, đã hoàn thành điều trị năm 2020 và 08 trường hợp
mắc Covid-19 từ Philippin, nhập cảnh ngày 07/3/2021 đang được tiếp tục cách ly,
theo dõi điều trị tại Khoa Nhiễm, Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận. Có 118 người
còn đang tiếp tục thực hiện cách ly tập trung; trong đó có 116 người nhập cảnh
từ Philippin và 02 người đến về từ tỉnh Hải Dương.
Các bệnh truyền nhiễm khác: Trong
quý I/2021, có 108 trường hợp mắc
bệnh Sốt xuất huyết, tăng 13,7% so với cùng kỳ (95 trường hợp); 28 trường hợp mắc bệnh Tay chân miệng,
tăng 75% so với cùng kỳ (16 trường
hợp). Chưa phát hiện trường hợp mắc các loại
Cúm A.
đ/ Văn
hóa, thể thao
Các hoạt động văn hóa
chính trong quý I/2021 là hoạt động phục vụ Tết Nguyên đán Tân Sửu 2021 đã được
tổ chức đơn giản, vui tươi, tiết kiệm và tuân thủ nghiêm các quy định về phòng
chống dịch Covid-19 với các hoạt động chính: Tổ chức Vườn hoa xuân Tân Sửu 2021
với chủ đề “Mừng Đảng- Mừng Xuân Tân Sửu 2021, mừng Ninh Thuận phát triển nhanh
và bền vững”; trưng bày chuyên đề Mừng Đảng- mừng Xuân Tân Sửu 2021; hội Báo
Xuân. Tỉnh không tổ chức các chương trình biểu diễn nghệ thuật và bắn pháo hoa
đón giao thừa Tết Tân Sửu 2021 để phòng chống dịch Covid-19.
Tỉnh tổ chức thành
công Giải bóng bàn và giải bóng rổ không chuyên mở rộng “Mừng Đảng – Mừng
Xuân”. Tiến hành đào tạo 13 đội thể thao ở các môn: taekwondo, điền kinh,
vovinam, karate, quần vợt, cầu lông, cờ vua; với 15 huấn luyện viên và 54 vận động
viên. Thực hiện các thủ tục triệu tập tập huấn, thi đấu bổ sung vận động viên
các đội thể thao thành tích cao tỉnh Ninh Thuận năm 2021-2023. Đội Điền kinh
tham dự Giải Việt dã “Chào năm mới” BTV – Number 1 lần thứ XXII – năm 2021 tại
tỉnh Bình Dương.
e/ Tai nạn giao thông
Tính chung quý I/2021, trên địa bàn cả tỉnh xảy ra 49 vụ tai nạn giao
thông (toàn bộ thuộc đường bộ), bao gồm 21 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm
trọng trở lên và 28 vụ va chạm giao thông, làm 20 người chết, 48 người bị
thương. So với cùng kỳ năm trước, số
vụ tai nạn giao thông tăng 12 vụ (+32,4%); số người chết tăng 04 người (+25%)
và số người bị thương tăng 08 người (+20%). Bình quân 1,2 ngày trong tháng xảy
ra 01 vụ tai nạn giao thông.
Tính riêng tai nạn giao
thông ít nghiêm trọng trở lên, trong ba tháng đầu năm xảy ra 21 vụ, làm 20 người chết, 10 người bị thương, thiệt hại tài sản
khoảng 582,5 triệu đồng. So với cùng kỳ
năm trước, số vụ tăng 05 vụ (+31,3%); số người chết tăng 05 người (+33,3%)
và số người bị thương tăng 04 người (+66,7%).
g/ Tình hình cháy, nổ
Lũy kế 3 tháng đầu năm 2021 xảy ra 02 vụ cháy,
giảm 02 vụ so cùng kỳ 2020; không có người chết và bị thương, bằng cùng kỳ
2020; thiệt hại tài sản 103 triệu đồng, giảm 77,51% so cùng kỳ năm 2020./.
*Đính kèm file: “Phân tích kinh tế-xã hội quýI năm 2021”
“Số liệu KT-XH quý I năm 2021”.
Nguyễn
Hồng Thiện
(Phòng thống kê Tổng hợp)
|