11-12-2020
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Thuận tháng 11 năm 2020
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông nghiệp
trong tháng Mười Một tập trung chủ
yếu vào chăm sóc lúa và các loại cây màu vụ mùa. Các đợt mưa bão trong tháng
cung cấp lượng nước tưới dồi dào. Chăn nuôi phát triển ổn định, dịch tả lợn châu Phi được
kiểm soát tốt, không có ổ dịch xảy ra. Sản xuất thủy sản giảm sản lượng cả khai thác lẫn nuôi
trồng do ảnh hưởng mưa bão, nhưng sản xuất giống thủy sản tăng cao (nhất là tôm
giống).
a/ Nông nghiệp
Trồng trọt: Diện tích gieo trồng
lúa tính đến ngày 15/11/2020 đạt 33.298,9 ha, giảm 24,9% so cùng kỳ năm 2019. Trong
tháng, liên tục xảy ra các cơn bão số 8 đến số 12, tuy không ảnh hưởng trực tiếp
đến tỉnh nhưng cũng gây mưa to trên diện rộng, lượng nước tại các hồ chứa trên địa bàn tỉnh đạt cao trình tích, nguồn nước đảm bảo cho sản xuất và sinh hoạt đời sống người dân, cho đàn gia súc
chăn thả.
Kết thúc gieo trồng vụ mùa 2020, toàn tỉnh thực hiện được 21.209,4 ha,
giảm 8,9% so cùng kỳ; trong đó: cây lúa 9.570,5 ha, bằng 76,3% so cùng kỳ. Vụ mùa năm nay,
phần lớn diện tích lúa và rau các loại đều giảm so cùng kỳ do thu hoạch vụ hè
thu trễ, không kịp sản xuất vụ Mùa nên diện tích giảm. Dự ước năng suất lúa vụ
mùa 2020 khoảng 53,4 tạ/ha, tăng 3,1 tạ/ha so vụ mùa 2019 (tăng 6,1%); sản
lượng đạt 51,15 nghìn tấn, giảm 18,9%.
Chăn nuôi: Thời tiết ảnh hưởng bởi
các cơn bão liên tục nên có mưa nhiều, đồng cỏ tự nhiên cho việc chăn thả đàn
gia súc có sừng được khôi phục trở lại. Đàn gia súc, gia cầm trong tháng tiêu
thụ ổn định, giá heo hơi, dê hơi và cừu hơi đang đứng chững lại và dự kiến sẽ
tiếp tục giảm trong các tháng tới do nguồn cung tăng lên và được thay thế bằng
thịt gia cầm; các sản phẩm còn lại duy trì và biến động không lớn. Rải rác xuất hiện một số bệnh gia súc, gia cầm như Tụ huyết trùng trên trâu
bò; tụ huyết trùng và phó thương hàn heo; bệnh Newcastle, Gumboro trên gà chỉ
xuất hiện rải rác tại một số địa phương, nhưng được phát hiện sớm và khống chế
kịp thời. Riêng bệnh dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát tốt, không có ổ dịch bệnh
nào xảy ra.
b/ Lâm nghiệp: Đến thời điểm hiện tại đã thực hiện trồng 422 ha (không tính cây
nông nghiệp), chủ yếu là cây thanh thất, thông 3 lá, muồng đen, neem, đạt 100%
kế hoạch, tăng 5,1% so cùng kỳ. Công tác quản lý rừng trong tháng có mưa nên việc
tuần tra chưa chặt chẽ, số vụ vi phạm trong tháng tăng hơn so cùng kỳ. Tính đến
ngày 15/11/2020 (theo báo cáo Chi cục Kiểm lâm tỉnh), tổng số vụ vi phạm phát
hiện trong tháng 26 vụ, tăng 7 vụ (+36,8%).
c/ Thủy sản: Trong tháng Mười Một, sản lượng thủy sản cả tỉnh ước đạt 3.266,5 tấn,
giảm 4,4% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 2.353,8 tấn, giảm 3,7%; tôm
đạt 577 tấn, giảm 11,7%; thủy sản khác đạt 335,7 tấn, tăng 5,4%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước
tính đạt 777,3 tấn, giảm 5,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 62,5 tấn,
tăng 9,6%; tôm đạt 541,8 tấn, giảm 12,2%; thủy sản khác đạt 173 tấn, tăng
16,2%. Nuôi tôm thịt bị ảnh hưởng mưa bão nên năng suất đạt thấp, giá tôm giảm
so cùng kỳ năm trước vì nhiều nơi thu hoạch sớm để tránh bão.
Tính chung 11 tháng năm
2020, sản lượng thủy sản ước tính đạt 125.054,2 tấn, tăng 3,5% so với cùng kỳ
năm trước, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 9.052,5 tấn, giảm 10,7%;
sản lượng thủy sản khai thác đạt 116.001,6 tấn, tăng 4,7% (sản lượng khai thác
biển đạt 115.918,2 tấn, tăng 4,7%).
2. Sản
xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp
tháng Mười Một tiếp tục đà tăng trưởng với mức tăng 25,87% so với cùng kỳ năm
trước. Tuy vậy, phần tăng này chủ yếu đến từ ngành sản xuất và phân phối điện,
trong khi đó ngành khai khoáng và ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tụt giảm,
ngành cung cấp nước giảm tốc. Tuy nhiên tính chung 11 tháng, sản xuất công nghiệp
vẫn đạt mức tăng cao 41,11%, trong đó công nghiệp sản xuất và phân phối điện
tăng rất cao 96,43%.
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 11/2020 ước tính tăng
5,32% so với tháng trước, tăng 25,87% so với cùng kỳ năm trước; trong đó ngành
khai khoáng giảm 7,47%; chế biến, chế tạo giảm 7,43% chủ yếu do dệt (SX khăn
bông) giảm 32,47%, sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 28,06%, sản xuất
đồ uống (chủ yếu bia lon) giảm 20,25% và sản xuất chế biến thực phẩm giảm
8,04%; ngành chủ lực sản xuất và phân phối điện tăng 57,19%; cung cấp nước và xử
lý rác thải, nước thải tăng 6,16%.
Tính chung 11 tháng năm 2020, IIP ước tính tăng 41,11% so với cùng kỳ
năm trước, thấp hơn mức tăng 69,32% của cùng kỳ năm 2019. Trong đó, ngành khai
khoáng tăng 31,54% (cùng kỳ năm trước giảm 33,53%); ngành chế biến, chế tạo giảm
5,31% (cùng kỳ năm trước tăng 10,51%); ngành sản xuất và phân phối điện tăng
cao 96,43% (cùng kỳ năm trước tăng rất cao 301,41%); ngành cung cấp nước và xử
lý rác thải, nước thải tăng 9,54% (cùng kỳ năm trước tăng 4,49%).
3. Vốn đầu tư phát triển
Thực hiện chỉ đạo của Thủ
tướng Chính phủ, tỉnh đang tập trung triển khai thực hiện các dự án, công trình
nhằm giải ngân hết kế hoạch vốn đã giao năm 2020, tuy nhiên vốn đầu tư thực hiện
từ nguồn ngân sách Nhà nước 11 tháng mới đạt 66,5% kế hoạch năm và tăng 59,4%
so với cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 11/2020 ước tính
đạt 270,4 tỷ đồng, tăng 161,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng,
vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 1.742,9 tỷ đồng, bằng
66,5% kế hoạch năm và tăng 59,4% so với cùng kỳ năm trước; bao gồm: Vốn ngân
sách nhà nước cấp tỉnh 1.312,8 tỷ đồng, tăng 65,1%; vốn ngân sách nhà nước cấp
huyện 424,4 tỷ đồng, tăng 42,8%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 5,7 tỷ đồng,
tăng 388,9%.
4.
Thu, chi ngân sách
Trong 11 tháng năm 2020,
dù tình hình dịch bệnh Covid-19 làm ảnh hưởng kinh tế cả nước, nhưng tiến độ
thu ngân sách Nhà nước đạt khá; chi ngân sách tiếp tục bảo đảm đáp ứng kịp thời
các nhiệm vụ đầu tư phát triển, chi trả nợ, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hoạt
động của bộ máy Nhà nước.
Tổng
thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đến ngày 30/11/2020 ước đạt 3.500 tỷ đồng/
3.500 tỷ đồng, đạt 100% dự toán HĐND tỉnh giao. Trong đó: thu nội địa ước đạt
2.371,5 tỷ đồng/ 2.700 tỷ đồng, đạt 87,8% dự toán HĐND tỉnh giao; thu hoạt động
xuất nhập khẩu đạt 1.227,5 tỷ đồng/ 800 tỷ đồng, đạt 153,4% dự toán HĐND tỉnh
giao.
Tổng
chi ngân sách địa phương ước đạt 5.630 tỷ đồng/ 6.495 tỷ đồng, đạt 86,7% dự toán
HĐND tỉnh giao. Công tác chi ngân sách được đảm bảo kế hoạch và đáp ứng kịp thời
việc điều hành thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Thực
hiện tiết kiệm tối đa các khoản chi hành chính và mua sắm trang thiết bị phục vụ
công tác.
5. Thương mại, giá cả,
vận tải
a/ Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Hoạt động thương mại và
dịch vụ tháng Mười Một tiếp tục xu hướng tăng, tổng mức bán lẻ hàng
hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 11/2020 tăng 0,8% so với tháng trước
và tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng năm 2020, tổng mức
bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 4,5%.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Mười Một ước
tính đạt 2.140,8 tỷ đồng, tăng 0,8% so với tháng trước và tăng 8,9% so với cùng
kỳ năm trước. Trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 1.662,9 tỷ đồng, tăng
0,2% và tăng 10,7%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 297,3 tỷ đồng, tăng
2,2% và tăng 2,2%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 0,2 tỷ đồng, tăng 3% và giảm
54,5%; doanh thu dịch vụ khác đạt 180,3 tỷ đồng, tăng 4,7% và tăng 3,8%.
Tính chung 11 tháng năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch
vụ tiêu dùng đạt 21.696,8 tỷ đồng, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước.
b) Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá
đô la Mỹ
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11 năm 2020 tăng 0,27% so với tháng trước
(khu vực thành vực thành thị tăng 0,18%, khu vực nông thôn tăng 0,36%); trong
đó, chỉ số nhóm hàng hóa tăng 0,29% (nhóm hàng lương thực-thực phẩm tăng 0,73%,
nhóm hàng phi lương thực-thực phẩm giảm 0,20%), chỉ số nhóm dịch vụ tăng 0,25%
so với tháng trước. So với tháng 12 năm trước CPI tăng 3,42% và tăng 5,06% so với
cùng kỳ năm trước; Bình quân 11 tháng đầu năm 2020 CPI tăng 5,25% so với năm
trước.
c) Vận tải hành khách và hàng hóa
Hoạt động vận tải tháng Mười Một tiếp tục tăng so với tháng trước với mức
tăng 0,9% về lượng hành khách vận chuyển và 3,5% về lượng hàng hóa vận chuyển,
toàn bộ là vận tải đường bộ. Tuy nhiên, tính chung 11 tháng năm 2020, vận chuyển
hành khách vẫn giảm 31,3% và vận chuyển hàng hóa giảm 5% so với cùng kỳ năm
2019.
Vận tải hành khách tháng Mười Một ước tính đạt 550 nghìn lượt khách vận
chuyển, tăng 0,9% so với tháng trước và luân chuyển 41.985 nghìn lượt khách.km,
tăng 0,8%. Tính chung 11 tháng năm 2020, vận tải hành khách đạt 4.373 nghìn lượt
khách vận chuyển, giảm 31,3% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 334.656 nghìn
lượt khách.km, giảm 33,3%.
Vận tải hàng hóa tháng Mười Một ước tính đạt 768 nghìn tấn hàng hóa vận
chuyển, tăng 3,5% so với tháng trước và luân chuyển 55.985 nghìn tấn.km, tăng
3,9%. Tính chung 11 tháng năm 2020, vận tải hàng hóa đạt 6.660 nghìn tấn hàng
hóa vận chuyển, giảm 5% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 490.767 nghìn tấn.km,
giảm 6,7%.
6. Một số tình hình
xã hội
a/ Đời
sống dân cư, công tác an sinh xã hội:
Trong tháng Mười Một,
đời sống dân cư nhìn chung ổn định, thiếu đói không phát sinh. Tính chung 11
tháng năm nay, cả tỉnh không phát sinh hộ thiếu đói. Trong tháng 10, tổ chức phân bổ, cấp
phát 954,51 tấn gạo cứu đói cho nhân dân gặp khó khăn vùng hạn hán trên địa bàn
tỉnh theo Quyết định số 1495/QĐ-TTg ngày 02/10/2020 của Thủ tướng Chính phủ đảm
bảo đúng đối tượng, đúng quy định.
Qua kết quả rà soát sơ bộ
hộ nghèo, hộ cận nghèo cuối năm 2020 theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn
2016-2020, toàn tỉnh có 9.889 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 5,52%, giảm 1,22% so
với cuối năm 2019; đạt 122% so với kế hoạch đã đề ra. Hộ cận nghèo: 13.657 hộ, chiếm tỷ lệ 7,63%, giảm 0,39% so với cuối
năm 2019.
b/ Chăm sóc sức khỏe cộng đồng
Phòng chống dịch
Covid-19: Tính đến 15/11/2020, toàn tỉnh có 03 trường hợp
nhiễm dịch bệnh Covid-19 từ nhập cảnh, đó là các bệnh nhân: BN61, BN67 (người
Việt, nhiễm bệnh 3/2020) và BN1221 (chuyên gia người Đức, nhiễm bệnh 11/2020);
trong đó, 02 trường hợp đã được chữa khỏi, 01 trường hợp đang được điều trị tại
Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận (BN1221). Tính đến nay, Ninh Thuận không có
ca nhiễm bệnh cộng đồng.
Các bệnh truyền nhiễm khác: Tính đến 12/11/2020
toàn tỉnh phát hiện 332 trường hợp Sốt xuất huyết, giảm 75,7% so với cùng kỳ
năm 2019; Tay chân miệng 208 trường hợp, giảm 37,9%. Chưa có trường hợp tử
vong do hai bệnh trên. Các bệnh truyền nhiễm khác mắc tản phát như Thủy đậu 81
ca, tăng 17 ca so cùng kỳ 2019; Quai bị 11 ca, giảm 69 ca;...
c/ Tình hình cháy, nổ
Trong tháng Mười Một xảy ra 01 vụ cháy nhà dân tại phường Phước Mỹ,
thành phố Phan Rang- Tháp Chàm, không thiệt hại về người, tài sản thiệt hại khoảng
60 triệu đồng, hiện chưa rõ nguyên nhân gây cháy.
Lũy kế 11 tháng năm 2020 xảy ra 14 vụ cháy, tăng 02 vụ so cùng kỳ 2019;
không có người chết và bị thương, bằng cùng kỳ 2019; thiệt hại tài sản 10.687 tỷ
đồng, tăng 50%. Vụ nổ không xảy ra.
d/ Tai nạn
giao thông
Trong
tháng (từ ngày 15/10 đến ngày 14 tháng 11 năm 2020), xảy ra 09 vụ tai nạn
giao thông, bao gồm 04 vụ tai nạn giao thông từ nghiêm trọng trở lên và 05 vụ
va chạm giao thông, làm 05 người chết, 08 người bị thương. So với tháng trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 06 vụ (-40%); số
người chết tăng 02 người (+66,7%) và số người bị thương giảm 07 người (-46,7). So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn
giao thông tháng Mười Một giảm 01 vụ (-10%); số người chết tăng 03 người
(+150%) và số người bị thương tăng 01 người (+14,3%).
Tính chung 11 tháng năm
2020, cả tỉnh đã xảy ra 135 vụ tai nạn giao thông, làm 56 người chết, 127 người
bị thương. So với cùng kỳ năm trước,
số vụ tai nạn giao thông trong 11 tháng giảm 16 vụ (-10,6%); số người chết tăng
04 người (+7,7%); số người bị thương giảm 44 người (-25,7%). Bình quân 2,5 ngày
trong 11 tháng, xảy ra 01 vụ tai nạn giao thông.
*Đính kèm file: “Phântích kinh tế-xã hội tháng 11 năm 2020”
“Số liệu KT-XH tháng 11 năm 2020”.
Nguyễn Hồng Thiện
(Phòng thống kê Tổng hợp)
|