CHỈ SỐ SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP (IIP) THÁNG 3 NĂM 2022
Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (IIP) quý I/2022 đạt mức tăng 5,33% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng thấp nhất trong các năm 2020-2022. Các ngành mặc dù có tốc độ tăng cao so với cùng kỳ như: công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,25%; khai khoáng tăng 10,73%; cung cấp nước và xử lý rác thải tăng 8,59%; nhưng do ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện có mức tăng ước chỉ đạt 3,07% (mức thấp nhất kể từ năm 2019 đến nay) là yếu tố ảnh hưởng quyết định tăng trưởng chỉ số sản xuất chung toàn ngành đạt thấp so với cùng kỳ 2021.

Chỉ số IIP toàn ngành công nghiệp quý I/2022 ước tính tăng 5,33% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành Sản xuất và phân phối điện có quyền số giá trị tăng thêm hiện chiếm 71% tỷ trọng quyền số sản xuất công nghiệp toàn ngành, chỉ số sản xuất ước tính quý I tăng 3,07% (đóng góp tăng 2,2 điểm % chỉ số chung); trong đó, sản lượng điện sản xuất các loại chỉ tăng 0,8%, riêng điện mặt trời giảm 4% so cùng kỳ. Ngành Chế biến, chế tạo tăng 11,25%, đóng góp tăng 2,37 điểm phần trăm vào chỉ số toàn ngành công nghiệp. Ngành Khai khoáng tăng 10,73% so cùng kỳ, trong đó khai thác muối biển ước tăng nhẹ 0,85% so cùng kỳ năm trước, nguyên nhân thời tiết thuận lợi, lượng muối tồn kho đến cuối tháng 02/2022 còn hơn 100 ngàn tấn, giảm 60% so cùng kỳ.



Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất quý I/2022 tăng cao so với cùng kỳ năm trước: sản xuất đồ uống tăng 36,11%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 35,71%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 14,8%; khai khoáng khác tăng 10,73%. Bên cạnh đó, một số ngành có chỉ số sản xuất giảm hoặc tăng thấp so với cùng kỳ năm trước: In, sao chép bản ghi các loại giảm 14,12%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 12,2%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) giảm 2,2%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 1,02%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 0,01%; sản xuất trang phục tăng 2,08%; dệt tăng 7,17%.

Tình hình một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu quý I/2022 so với cùng kỳ năm trước: Tôm đông lạnh tăng 51,2%, là sản phẩm chiếm tỷ trọng cao trong giá trị ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, thị trường xuất khẩu có nhiều hợp đồng mới, sản lượng chế biến vẫn giữ ổn định, sản xuất quý I ước đạt 1.743 tấn. Bia đóng lon tăng 44,6%, dự kiến sản xuất trong quý đạt gần 14,3 triệu lít, đây là sản phẩm đóng góp nhiều trong cơ cấu ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và toàn ngành công nghiệp. Sản xuất tinh bột mỳ giảm 27,2%, dự kiến sản xuất 5.140 tấn, giảm 27,2% so cùng kỳ, do thị trường tiêu thụ chủ yếu (Trung Quốc) giảm nhập do dịch bệnh (nguồn nguyên liệu cung cấp để sản xuất vẫn đáp ứng đủ cho yêu cầu sản xuất). Xi măng các loại ước đạt 46,7 ngàn tấn, giảm 15,6% so cùng kỳ, các công trình điện năng lượng tái tạo đã hoàn thành xây dựng là một trong những nguyên nhân giảm nhu cầu sử dụng tại địa phương. Hạt điều khô giảm 5,9%, do tác động bởi tình hình kiểm soát dịch bệnh tại các thị trường tiêu thụ chính (Trung Quốc), dự kiến sản xuất trong quý ước chỉ đạt 752 tấn, giảm 6% so cùng kỳ. Sản xuất đ­ường ước đạt 6.942 tấn, giảm 5,2%, do nguồn nguyên liệu mía cây không đáp ứng đủ theo nhu cầu sản xuất của doanh nghiệp. Muối biển tăng nhẹ 0,8%, những tháng đầu năm 2022 thời tiết thuận lợi, sản lượng thu hoạch ước quý I đạt hơn 78,3 nghìn tấn; giá tiêu thụ muối tăng gần 60% so cùng kỳ (giá bình quân quý I/2022 gần 1.000 đồng/kg) là động lực tăng lượng sản xuất trong những tháng tiếp theo của vụ muối 2022. Điện sản xuất trong quý ước đạt 1.747 triệu kwh, so cùng kỳ tăng 0,8%; trong đó, điện năng lượng tái tạo đã cung cấp sản lượng ước đạt 1.429 triệu kwh, cụ thể: điện gió 359 triệu kwh (tăng 28,7%); điện mặt trời 1.070 triệu kwh (giảm 4% cùng kỳ); hiện nay toàn tỉnh3.654 cơ sở lắp đặt điện mặt trời mái nhà với tổng công suất 394 MW; sản lượng điện phát lên lưới ước quý I đạt 100 triệu kwh.

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 3/2022 tăng 52,3% so với tháng trước và tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2022, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 231,7%; sản xuất đồ uống tăng 61,7%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 47,3%; dệt tăng 21,8%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm: sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm 61,9%; sản xuất trang phục giảm 26,9%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ... giảm 38,7%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 25,2%; sản xuất chế biến thực phẩm giảm 1,8%.

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/3/2022 tăng 72,8% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm: sản xuất đồ uống tăng 61,8%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 46,6%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất giảm 1,1%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 13,5%; sản xuất trang phục giảm 20,2%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ… giảm 79,5%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng thời điểm năm trước: Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 1.100,2%; dệt tăng 96,9%.

Nhìn chung, tình hình hoạt động sản xuất công nghiệp trong quý I/2022 đạt mức tăng trưởng thấp so cùng kỳ năm trước, một vài sản phẩm vẫn bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 do đứt gãy chuỗi cung ứng nguyên liệu, thành phẩm. Nhưng ngành công nghiệp chủ lực hiện nay là sản xuất điện đã đạt trần công suất và có xu hướng chậm lại nên đã ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng toàn ngành công nghiệp trong quý I năm 2022.

*Đính kèm file: “Sốliệu chỉ số IIP tháng 3 năm 2022”.

Nguyễn Hồng Thiện
(Phòng thống kê Tổng hợp)









Thống kê truy cập
  • Đang online: 9
  • Hôm nay: 588
  • Trong tuần: 4960
  • Tất cả: 968954

Copyright © 2016 CỤC THỐNG KÊ TỈNH NINH THUẬN

ĐƯỜNG 16 THÁNG 4, PHƯỜNG MỸ HẢI,  TP. PHAN RANG - THÁP CHÀM, NINH THUẬN

Điện thoại: 0259 3 830318  * Email: ninhthuan@gso.gov.vn