Tình hình kinh tế - xã hội tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2022 tỉnh Ninh Thuận

Trong tháng 6/2022, kinh tế toàn cầu trong năm 2022 được dự báo xấu đi so với các dự báo đưa ra trước đó, phần lớn là do tác động của cuộc xung đột giữa Nga và U-crai-na và việc thực hiện các biện pháp phong tỏa thường xuyên và trên phạm vi rộng ở Trung Quốc có thể gây ra những tắc nghẽn mới trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Các tổ chức tài chính uy tín thế giới đều hạ mức dự báo kinh tế toàn cầu năm 2022 so với trước: Ngân hàng Thế giới (World Bank) dự kiến chỉ đạt 2,9% năm 2022, giảm 1,2 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra vào tháng 01/2022; Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2022 ở mức 3,6%, thấp hơn 0,8 điểm phần trăm; Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) dự báo chỉ đạt mức 3%, thấp hơn 1,5 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 12/2021; Liên hợp quốc dự báo chỉ tăng trưởng 3,1% vào năm 2022, đánh dấu mức điều chỉnh giảm 0,9 điểm phần trăm so với dự báo được công bố vào tháng 01/2022.

            Trong báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 6/2022, World Bank dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt 5,8% trong năm 2022, cao hơn so với dự kiến tăng trưởng của Phi-li-pin, Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a và Thái Lan. Báo cáo tháng 4/2022, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng của Việt Nam trong năm 2022 đạt mức 6%. Còn Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) nhận định, tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2022 được dự báo đạt 6,5% khi nền kinh tế dần phục hồi nhờ tỷ lệ tiêm chủng vắc-xin Covid-19 cao, sự chuyển đổi sang cách tiếp cận ngăn chặn đại dịch linh hoạt hơn, mở rộng thương mại và Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế của chính phủ.

            Trong tỉnh, năm 2022 là năm có ý nghĩa quan trọng, tạo nền tảng thực hiện các mục tiêu của Kế hoạch 5 năm 2021-2025, là năm tổ chức triển khai thực hiện các Nghị quyết chuyên đề của Tỉnh ủy nhiệm kỳ 2020-2025, trong bối cảnh có những thuận lợi và khó khăn thách thức đan xen, tình hình dịch bệnh COVID-19 cơ bản được kiểm soát để phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh, thời tiết và nguồn nước thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp; nhưng khó khăn nổi lên là cơ chế chính sách giá điện gió, điện mặt trời chưa được ban hành, nguồn lực đầu tư công tiếp tục khó khăn, giá xăng dầu và chi phí đầu vào tăng cao làm ảnh hưởng đến sản xuất doanh nghiệp và đời sống Nhân dân. Ngay từ đầu năm, quán triệt phương châm hành động của Chính phủ, Tỉnh đề ra phương châm hành động năm 2022 “Đoàn kết, thích ứng, sáng tạo, kỷ cương, phát triển, hiệu quả”, bám sát Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính phủ, của Tỉnh ủy và HĐND tỉnh kịp thời ban hành Quyết định số 21/QĐ-UBND ngày 10/01/2022 với 21 nhiệm vụ trọng tâm đột phá và 177 nhiệm vụ cụ thể để chỉ đạo các cấp các ngành tập trung triển khai thực hiện; đồng thời tập trung chủ động phòng, chống, giảm thiểu tác động của dịch Covid-19 và hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2022 trên địa bàn tỉnh như sau:

1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP)

            Tổng sản phẩm trong Tỉnh (GRDP) 6 tháng đầu năm 2022 tăng 3,09% so với cùng kỳ năm 2021 (quý I tăng 3,71%, quý II tăng 2,52%). Đây là mức tăng thấp nhất trong 10 năm qua (2011-2021); trong đó: khu vực I (nông, lâm nghiệp và thủy sản) tăng 4,88% (quý I tăng 6,26%, quý II tăng 4,04%) đóng góp 1,3 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; khu vực II (công nghiệp và xây dựng) giảm 0,57% (quý I tăng 2,74%, quý II giảm 4,24%), đóng góp giảm 0,21 điểm phần trăm; khu vực III  (dịch vụ) tăng 8,08% (quý I tăng 5,37%, quý II tăng 10,77%), đóng góp 2,46 điểm phần trăm; thuế sản phẩm giảm 8,09% (quý I giảm 7,56%, quý II giảm 8,61%), đóng góp giảm 0,46 điểm phần trăm.

   Về cơ cấu GRDP 6 tháng đầu năm 2022: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 27,5%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 38,7%; khu vực dịch vụ chiếm 28,8%; thuế sản phẩm chiếm 5,0%; (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2021 là: 27,2%; 39,4%; 27,8%; 5,6%).

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

   Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm 2022 diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi, năng suất lúa Đông xuân giảm nhẹ so với cùng kỳ năm trước. Chăn nuôi heo và chăn nuôi gia cầm phát triển tốt, tổng đàn heo và gia cầm thời điểm cuối tháng Sáu ước tăng lần lượt 8,5% và 7,1% so với cùng thời điểm năm trước. Sản xuất lâm nghiệp ổn định. Sản xuất thủy sản tăng so cùng kỳ năm trước.

            a/ Nông nghiệp

            Kết thúc vụ Đông xuân 2022, cả tỉnh gieo trồng đạt 31.033,4 ha cây hàng năm, bằng 100,3% kế hoạch, tăng 1,6% so Đông xuân 2021. Trong đó, diện tích lúa Đông xuân đạt 17.875,6 ha, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Huyện Ninh Phước vẫn là địa phương có diện tích lúa Đông xuân lớn nhất với 5.403,9 ha, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Năng suất lúa đạt bình quân 66,3 tạ/ha, giảm 1,8 tạ/ha so với cùng kỳ năm trước; sản lượng đạt 118,5 nghìn tấn, bằng cùng kỳ. Năng suất lúa giảm do Đông xuân năm trước thuận lợi hơn về thời tiết và đất trồng.

   Cùng với việc thu hoạch vụ Đông xuân, các địa phương của tỉnh đã xuống giống được 7.500 ha lúa Hè thu, tăng 2,1 lần so cùng kỳ năm trước do lượng nước tưới dồi dào hơn cùng kỳ.

   Đến giữa tháng Sáu, các địa phương đã gieo trồng được 4.618,3 ha ngô, giảm 3,8% so cùng kỳ năm trước; 136,8 ha khoai lang, tăng 23,7%; 542 ha lạc, giảm 0,3%; 6.786,4 ha rau, đậu các loại, giảm 4,6%.

   Tổng diện tích cây lâu năm hiện có 12.371,8 ha, xấp xỉ cùng kỳ năm 2021, trong đó nhóm cây ăn quả đạt 6.397,1 ha, giảm 0,2%; nhóm cây lấy quả chứa dầu đạt 420,1 ha, tăng 11,4%; nhóm cây công nghiệp và nhóm cây gia vị, dược liệu đạt xấp xỉ cùng kỳ; nhóm cây lâu năm khác đạt 617,9 ha, giảm 4,9%. Sản lượng một số cây lâu năm chủ yếu 6 tháng đầu năm 2022 so với cùng kỳ năm trước: cây Nho đạt 17.475,7 tấn, tăng 1,5% so cùng kỳ; cây Xoài 5.253,4 tấn, tăng 9,8%; cây Táo 20.277,6 tấn, tăng 10,9%; cây Bưởi 1.441 tấn, tăng 14,9%; cây Điều 1.323,1 tấn, tăng 6,4%.

            Chăn nuôi trâu, bò trong 6 tháng đầu năm 2022 nhìn chung ổn định. Ước tính cuối tháng Sáu, đàn trâu cả tỉnh giảm 0,4% so với cùng thời điểm năm 2021; đàn bò giảm nhẹ 0,1%; đàn heo ước tăng 8,5%; đàn dê, cừu tăng 2,1%; tổng số gia cầm tăng 7,1%. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước đạt 78,2 tấn, giảm 0,9% so cùng kỳ; sản lượng thịt bò ước đạt 3.121,1 tấn, tăng 0,8%; sản lượng thịt heo hơi ước đạt 11.122,8 tấn, tăng 23,6%; sản lượng đàn dê, cừu hơi ước đạt 2.048 tấn, giảm 0,1%; sản lượng thịt gia cầm ước đạt 3.555,8 tấn, tăng 10,7%.

            b/ Lâm nghiệp

   Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, diện tích rừng trồng mới tập trung không phát sinh, không tăng không giảm so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 26,6 nghìn cây, tăng 9,7%; sản lượng gỗ khai thác đạt 870 m3, giảm 35,8%; sản lượng củi khai thác đạt 9,7 nghìn ste, tăng 2,1%.

   Ước tính 6 tháng đầu năm 2022, diện tích rừng bị thiệt hại là 6,6 ha, giảm 32,5% so với cùng kỳ năm trước, toàn bộ là diện tích rừng bị chặt, phá.

            c/ Thuỷ sản

   Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, sản lượng thủy sản ước tính đạt 61,7 nghìn tấn, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 54,7 nghìn tấn, tăng 3%; tôm đạt 2,5 nghìn tấn, giảm 11,1%; thủy sản khác đạt 4,5 nghìn tấn, tăng 34,2%.

            Tình hình sản xuất giống thủy sản 6 tháng đầu năm 2022 thuận lợi, thị trường khu vực miền Tây hiện giảm nhu cầu về giống tôm thẻ, nhưng tăng về giống tôm sú. Tôm giống Ninh Thuận hiện là thị trường lựa chọn hàng đầu, chiếm thị phần lớn chính tại các tỉnh nuôi tôm. Ước sản xuất giống thủy sản 6 tháng đầu năm 2022 đạt 20,8 tỷ con, tăng 2,4%, trong đó tôm sú giống đạt 4,1 tỷ con, tăng 19,2%; tôm thẻ giống ước đạt 16,6 tỷ con, giảm 1,6%.

3. Sản xuất công nghiệp

            Ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện 6 tháng đầu năm 2022 đạt độ tăng không cao, kéo theo chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành tăng thấp. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, chỉ số IIP toàn ngành tăng 5,66% so với cùng kỳ năm trước; trong đó ngành chủ lực sản xuất và phân phối điện chỉ tăng 4,50%, mức tăng thấp nhất từ năm 2018 đến nay.

            Chỉ số IIP toàn ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2022 dự tính tăng 5,66% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện chỉ tăng 4,5% so cùng kỳ, đóng góp tăng 2,65 điểm % chỉ số chung (điện sản xuất đạt trần công suất, ảnh hưởng của thời tiết có mưa, sự điều tiết giảm nguồn phát cùng với các dự án điện mới chưa thực hiện là những nguyên nhân chủ yếu làm tăng trưởng sản phẩm chủ lực này chậm lại); ngành chế biến, chế tạo tăng 12,36% so cùng kỳ, đóng góp tăng 3,75 điểm %; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,47%; ngành khai khoáng giảm 11,08%, chủ yếu do ngành khai thác muối biển và khai thác đá xây dựng giảm.

   Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ: Các loại đá lót, đá lót lề đường giảm 73,8%; Tinh bột sắn giảm 31,8%, nguyên nhân thị trường tiêu thụ chủ yếu (Trung Quốc) giảm nhập khẩu do dịch bệnh (nguồn nguyên liệu để sản xuất vẫn đáp ứng đủ cho yêu cầu sản xuất); Muối biển giảm 29,2%; Đá xây dựng khác giảm 23,4%; Hạt điều khô giảm 20,4%, do tác động bởi tình hình dịch bệnh tại thị trường tiêu thụ chính (Trung Quốc); Đường RS giảm 17,2%, nguồn nguyên liệu mía cây không đáp ứng đủ theo nhu cầu sản xuất của doanh nghiệp (quý II tạm ngưng); Xi măng giảm 16,7%; Điện sản xuất tăng 4,8% (trong đó, điện mặt trời giảm 3,2%); Gạch xây dựng giảm 1,9%. Một số sản phẩm tăng cao so với năm trước: Tôm đông lạnh tăng 70,7%, là sản phẩm chiếm tỷ trọng cao trong giá trị ngành công nghiệp chế biến chế tạo, thị trường xuất khẩu có nhiều hợp đồng mới, sản lượng chế biến tăng lên; Thạch Nha đam tăng 27,2%; Bia đóng lon tăng 14,3%.

4. Tình hình đăng ký doanh nghiệp

   Tình hình đăng ký doanh nghiệp tiếp tục phục hồi sau giai đoạn suy giảm vì dịch Covid-19. Trong 6 tháng đầu năm 2022, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng 34,5% so với cùng kỳ năm 2021, số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 54,2% và số doanh nghiệp thông báo giải thể giảm 6,8%. Riêng số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh tăng 32,1% so với cùng kỳ năm trước.

            Tính đến ngày 15/6/2022 đã có 269 doanh nghiệp thành lập mới với vốn đăng ký 11.515,9 tỷ đồng, tăng 34,5% số doanh nghiệp và số vốn đăng ký tăng 6,4 lần so cùng kỳ.

Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 54,2% so cùng kỳ; có 137 doanh nghiệp thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; có 41 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 6,8% và có 144 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, tăng 32,1% so cùng kỳ.

Tổng số doanh nghiệp đang hoạt động đến ngày 15/6/2022 là 3.873 doanh nghiệp với số vốn 90.935,8 tỷ đồng.

5. Thương mại, giá cả, dịch vụ

a/ Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Hoạt động thương mại, dịch vụ trên địa bàn tỉnh tiếp tục sôi động, nhu cầu hàng hóa phục vụ sản xuất tăng, nhu cầu tiêu dùng, du lịch, dịch vụ… phục hồi mạnh mẽ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Sáu tăng 3% so với tháng trước và tăng 36,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 20,9% so với cùng kỳ năm 2021. 

   Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước đạt 15.736,9 tỷ đồng, tăng 20,9% so với cùng kỳ năm trước.

   Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 6 tháng đầu năm nay ước đạt 12.806,7 tỷ đồng, chiếm 81,4% tổng mức và tăng 21,4% so với cùng kỳ năm 2021. Do ảnh hưởng của dịch Covid-19 đến hoạt động sản xuất của các nhà máy trong nước từ giữa năm 2021, cộng với chi phí hoạt động phát sinh như chi phí vận chuyển, nguyên liệu đầu vào tăng; Ảnh hưởng của giá cả thế giới tăng cao (xăng dầu, gas) đã làm cho giá của phần đa các hàng hóa tăng cao so với cùng kỳ năm trước, tác động làm doanh thu bán lẻ hàng hóa trong tháng tăng khá so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể ở một số nhóm hàng hóa tăng cao như sau: lương thực, thực phẩm tăng 11,7% so với cùng kỳ năm trước; đồ dùng gia đình tăng 20,6%; vật phẩm văn hóa giáo dục 13,8%; vật liệu xây dựng tăng 17,8%; xăng dầu tăng 72,3% (giá xăng dầu tăng 48,9%); nhiên liệu khác (gas) tăng 28,8% (giá gas tăng 26,0%). Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 1.822,2 tỷ đồng, chiếm 11,6%, tăng 18% so với cùng kỳ năm trước. Tình hình dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn cơ bản đã được kiểm soát, nhu cầu du lịch, ăn uống trong dịp các lễ, Tết tăng cao. Trong 6 tháng đầu năm 2022, đã thu hút được một lượng khá lớn khách du lịch nội tỉnh và ngoại tỉnh đến vui chơi, góp phần làm tăng doanh thu hoạt động khách sạn – nhà hàng, các lượt khách phục vụ của các cơ sở lưu trú của tỉnh tăng khá. Doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 1,6 tỷ đồng, chiếm chỉ 0,01%, tăng 22,6% so với cùng kỳ năm 2021. Doanh thu dịch vụ khác ước đạt 1.106,4 tỷ đồng, chiếm 7% và tăng 19,6%. Việc được tỉnh cho phép tổ chức, kinh doanh các hoạt động dịch vụ văn hóa, giải trí trong điều kiện bình thường mới như karaoke, quán bar, vũ trường ... làm cho doanh thu nhóm dịch vụ 6 tháng đầu năm 2022 tăng cao so với cùng kỳ năm 2021, cụ thể: Dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 67%; Dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 31,3%; Dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 21,1%; Dịch vụ khác tăng 20,1%; Doanh thu nhóm bất động sản tăng 7,8%; Dịch vụ hỗ trợ hành chính tăng 15,8%.

b/ Vận tải hành khách và hàng hóa

Hoạt động vận tải trong tỉnh tháng 6/2022 tiếp tục xu hướng khôi phục trở lại với mức tăng 3,9% lượng hành khách vận chuyển và tăng 45,3% lượng hàng hóa vận chuyển so với tháng trước. Tính chung 6 tháng đầu năm, vận chuyển hành khách tăng 31,7% và vận chuyển hàng hóa tăng 16,5% so với cùng kỳ năm trước.

            Tính chung 6 tháng, vận tải hành khách đạt 2,8 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 31,7% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2021 tăng 7,4%) và luân chuyển 204,5 triệu lượt khách.km, tăng 28,6% (cùng kỳ năm trước tăng 6,8%). Toàn bộ là hoạt động vận tải đường bộ trong nước.

            Vận tải hàng hóa đạt 4,2 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 16,5% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2021 tăng 15,7%)luân chuyển 306,2 triệu tấn.km, tăng 15,2% (cùng kỳ năm trước tăng 15,4%). Toàn bộ là hoạt động vận tải đường bộ trong nước.

c/ Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

            Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6/2022 tăng 0,95% so với tháng trước, chủ yếu do giá xăng, dầu tăng 3 đợt liên tiếp trong tháng. Đây cũng là nguyên nhân làm cho CPI tháng Sáu tăng 4,07% so với cùng kỳ năm trước và tăng 2,70% so với tháng 12/2021. Bình quân 6 tháng đầu năm 2022, chỉ số giá tiêu dùng tăng 2,83% so với cùng kỳ năm trước.

   CPI bình quân 6 tháng đầu năm 2022 tăng 2,83% so với bình quân cùng kỳ năm 2021; CPI tháng 6/2022 tăng 2,70% so với tháng 12/2021 và tăng 4,07% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân 6 tháng đầu năm nay tăng do một số nguyên nhân chủ yếu sau: (i) Trong 6 tháng đầu năm, giá xăng dầu được điều chỉnh 16 đợt (13 đợt tăng giá và 03 đợt giảm giá), bình quân 6 tháng đầu năm 2022, giá xăng dầu trong nước tăng 49,01% so với cùng kỳ năm trước, tác động làm CPI chung tăng 1,65 điểm phần trăm. So với thời điểm cuối tháng 12/2021, giá xăng dầu đã tăng cao mức kỷ lục, cụ thể: giá xăng A95 tăng 9.770 đồng/lít; giá xăng E5 tăng 8.920 đồng/lít và giá dầu diezen tăng 12.690 đồng/lít; (ii) Giá gas trong nước biến động theo giá gas thế giới, bình quân 6 tháng đầu năm 2022 giá gas tăng 26,0% so với cùng kỳ năm trước, góp phần làm CPI chung tăng 0,21 điểm phần trăm; giá gas hiện giao động từ 445.000-460.000 đồng/bình 12kg (tùy thương hiệu), tăng 122.070 đồng/bình 12kg so với thời điểm tháng 6/2021; (iii) Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở 6 tháng đầu năm 2022 tăng 11,2% so với cùng kỳ năm trước do giá xi măng, sắt, thép, cát tăng theo giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào và giá cước vận tải tăng, làm CPI chung tăng 0,20 điểm phần trăm; (iv) Dịch vu giao thông công cộng  6 tháng đầu năm 2022 tăng 13,42% so với cùng kỳ năm trước do giá xăng dầu tăng cao, tác động làm CPI chung tăng 0,05 điểm phần trăm.

            Do ảnh hưởng chung của giá vàng, đô la Mỹ trong nước và thế giới; So với bình quân cùng kỳ năm 2021, chỉ số giá vàng 6 tháng đầu năm 2022 tăng 2,28%, chỉ số giá đô la Mỹ tăng nhẹ 0,19%.

6. Tài chính, Ngân hàng

a/ Tài chính

   Thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu giảm mạnh kéo thu ngân sách tỉnh giảm theo. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, tổng thu ngân sách tỉnh đạt 58,2% dự toán HĐND tỉnh giao và giảm 11,4% so với cùng kỳ năm trước. Chi ngân sách Nhà nước tập trung bảo đảm các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, y tế và quản lý Nhà nước.

Thu ngân sách tỉnh trên địa bàn 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 2.030 tỷ đồng, đạt 58,2% dự toán HĐND tỉnh giao và giảm 11,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Thu nội địa 2.010 tỷ đồng, đạt 67,2% và tăng 16,7%; Thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 20 tỷ đồng, đạt 4% và giảm 96,5%.

Chi ngân sách tỉnh ước đạt 3.468 tỷ đồng, đạt 54% dự toán HĐND tỉnh giao.

b/ Ngân hàng

Hoạt động tiền tệ, ngân hàng trên địa bàn trong 6 tháng đầu năm 2022 ổn định và an toàn. Huy động vốn từ tổ chức kinh tế, dân cư và dư nợ tín dụng có sự tăng trưởng so với cuối năm 2021 (Huy động vốn ước tăng 8,9%, dư nợ cho vay ước tăng 3,5%). Vốn tín dụng được tập trung đầu tư phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên, các chương trình tín dụng trọng điểm. Tỷ lệ nợ xấu vẫn trong tầm kiểm soát.

Theo báo cáo của Ngân hàng nhà nước chi nhánh tỉnh Ninh Thuận, ước đến cuối tháng 6/2022: Nguồn vốn huy động trên địa bàn ước đạt 20.300 tỷ đồng, tăng 8,9% (tăng 1.663 tỷ đồng) so với cuối năm 2021, bằng 97,3% kế hoạch năm 2022. Tổng dư nợ tín dụng ước đạt 34.500 tỷ đồng, tăng 3,5% (tăng 1.164 tỷ đồng) so với cuối năm 2021, bằng 89,99% kế hoạch. Dư nợ xấu trên địa bàn là 227 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 0,66% so với tổng dư nợ, tăng 0,03% so với tỷ lệ nợ xấu cuối năm 2021 (số tuyệt đối tăng 17,7 tỷ đồng).

7. Đầu tư

   Ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 làm dòng vốn khu vực ngoài Nhà nước và khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm, các dự án năng lượng cũng giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước làm cho tổng vốn đầu tư toàn xã hội giảm. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 6 tháng đầu năm 2022 giảm 37% so với cùng kỳ năm trước.

   Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh ước đạt 10.036,4 tỷ đồng, giảm 37% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: nguồn vốn nhà nước 1.098,4 tỷ đồng, tăng 7,1%; vốn ngoài nhà nước 8.785,5 tỷ đồng, giảm 36,8%; vốn đầu tư nước ngoài 152,5 tỷ đồng, giảm 84,8%. Nguyên nhân nguồn vốn đầu tư trong 6 tháng đầu năm 2022 giảm chủ yếu do nguồn vốn khu vực ngoài Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm mạnh.

            8. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

   Các hiệp định thương mại kinh tế với các nước phát triển trên thế giới làm cho kim ngạch xuất khẩu của tỉnh tiếp tục tăng trưởng, nhất là mặt hàng thủy sản đông lạnh; trong khi giá trị nhập khẩu giảm mạnh do giảm nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ các dự án năng lượng. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa 6 tháng đầu năm 2022 đạt 96,2 triệu USD, giảm 67,8% so cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 61,1 triệu USD, tăng 9,3%; nhập khẩu đạt 35,1 triệu USD, giảm 85,5%. Xuất siêu đạt 26 triệu USD (cùng kỳ 2021 nhập siêu 187 triệu USD) .

a/ Xuất khẩu hàng hóa

            Kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 61,1 triệu USD, tăng 9,3% so cùng kỳđạt 50,9% so kế hoạch năm (120 triệu USD). Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu gồm: Thủy sản ước đạt 45,7 triệu USD, tăng 57% so cùng kỳ; nhân điều ước đạt 3,7 triệu USD, giảm 72,9%; mặt hàng khác ước đạt 11,6 triệu USD, giảm 10,4% so với cùng kỳ năm trước.

b/ Nhập khẩu hàng hóa

            6 tháng đầu năm 2022, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 35,1 triệu USD, giảm 85,5% so cùng kỳ năm 2021 (do năm nay các dự án năng lượng phần lớn đã hoàn thành và đi vào hoạt động nên nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ các dự án không còn) và đạt 17,55% so kế hoạch (200 triệu USD). Số lượng thủy sản nhập khẩu phục vụ sản xuất tăng 58% so với năm ngoái, tuy nhiên số lượng điều nhập khẩu giảm 81,9%.

9. Một số vấn đề xã hội

a/ Đời sống dân cư, công tác an sinh xã hội

            Tình hình đời sống nhân dân trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận trong 6 tháng đầu năm 2022 chịu nhiều ảnh hưởng, khó khăn do dịch Covid-19, nhưng nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp, các ngành và sự nỗ lực của nhân dân nên nhìn chung đời sống dân cư cơ bản giữ được ổn định.

Triển khai thực hiện tốt các hoạt động chăm lo Tết Nguyên đán Nhâm Dần năm 2022 kịp thời, đúng đối tượng. Tổ chức cấp phát 1.508,8 tấn gạo hỗ trợ của Chính phủ cho 25.284 hộ/100.588 nhân khẩu dịp Tết Nguyên Đán Nhâm Dần năm 2022; số lượng gạo được cấp phát kịp thời, đúng đối tượng, đảm bảo chất lượng theo quy định;…

b/ lao động, việc làm

            Công tác giải quyết việc làm mới tiếp tục được quan tâm triển khai đồng bộ và gắn liền với phát triển kinh tế- xã hội của địa phương. Tiếp tục triển khai các hoạt động nhằm đẩy mạnh công tác tư vấn đào tạo nghề, giải quyết việc làm trong tỉnh và công tác đưa người lao động đi xuất khẩu lao động.

            Đã giải quyết việc làm mới 10.707 lao động/16.000 lao động, đạt 60,9% kế hoạch giao, tăng 66,7% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó: Lao động trong tỉnh: 4.215 lao động; lao động ngoài tỉnh: 6.443 lao động; xuất khẩu lao động: 49 lao động/150 lao động, đạt 32,7% kế hoạch giao.

            Đã tổ chức đào tạo nghề trình độ Sơ cấp nghề cho 4.682/9.000 người, đạt 52% kế hoạch, tăng 75% so với cùng kỳ năm trước, trong đó đào tạo nghề cho lao động nông thôn là 349 người.

c/ Giáo dục

            Tính đến tháng 6/2022, tổng số trường đạt chuẩn là 142 trường, trong đó: trường phổ thông là 120/216 trường (Tiểu học 80 trường, THCS 32 trường, THPT 08 trường) đạt tỷ lệ 55,56%; trường mầm non 22/87 trường đạt tỷ lệ 25,28%. Số học sinh Tiểu học học 2 buổi/ngày (30 tiết/tuần trở lên) có 42.000 hs/62.743 hs  đạt tỷ lệ 66,94%.

            Tổ chức kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp quốc gia năm học 2021-2022 tại tỉnh Ninh Thuận; kết quả đạt 10 giải/05 môn thi: Môn Ngữ văn có 02 giải Khuyến khích, môn Địa lý có 01 giải Khuyến khích, môn Tin học có 02 giải Khuyến khích; môn Vật lý có 01 giải Nhì, 01 giải Ba, 01 giải Khuyến khích; môn Hóa có 02 giải Nhì.

            Tổ chức kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh năm học 2021-2022 cho 2 cấp THCS và THPT. Kết quả có 18 giải Nhất, 90 giải Nhì và 270 giải Ba.

d/ Chăm sóc sức khỏe cộng đồng

Tính từ ngày 01/01/2022 đến 10/6/2022, toàn tỉnh có 2.936 người mắc Covid-19, 07 trường hợp tử vong, chủ yếu trong 03 tháng đầu năm 2022; từ ngày 01/4/2022 dịch bệnh đã được kiểm soát.

Trong 6 tháng đầu năm 2022, toàn tỉnh ghi nhận các các bệnh truyền nhiễm khác như sau: 86 ca mắc số xuất huyết, giảm 47,2% so với cùng kỳ năm trước; 39 ca mắc tay chân miệng, giảm 27,8%; thủy đậu 04 ca, giảm 90%; tiêu chảy 412 ca, giảm 32,7%; bệnh lỵ 35 ca, giảm 46,9%; cúm 2.168 ca, giảm 14,7%. Chưa có trường hợp tử vong do các bệnh trên.

d/ Văn hóa, thể thao

   Công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa luôn được các địa phương quan tâm, đầu tư, nhằm phát huy được giá trị di sản, tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo.

Trong 6 tháng đầu năm 2022 đã tham dự 06 giải thể thao (01 Giải Vô địch Đông Nam Á; 03 giải thể thao quốc gia và 02 giải thể thao khu vực mở rộng); đạt 23 huy chương các loại, trong đó có 5 Huy chương Vàng.

đ/ Tai nạn giao thông

Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, trên địa bàn cả tỉnh xảy ra 66 vụ tai nạn giao thông (gồm 65 vụ đường bộ và 01 vụ đường sắt), làm 25 người chết, 61 người bị thương. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 15,4% (giảm 12 vụ); số người chết giảm 28,6% (giảm 10 người) và số người bị thương giảm 16,4% (giảm 12 người). Bình quân 2,8 ngày trong tháng xảy ra 01 vụ tai nạn giao thông.

e/ Tình hình cháy, nổ và bảo vệ môi trường

Lũy kế 6 tháng năm 2022 xảy ra 02 vụ cháy, không thiệt hại về người; tài sản thiệt hại 152 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước, số vụ cháy giảm 01 vụ; thiệt hại về người không tăng/giảm; thiệt hại về tài sản giảm 46,6 triệu đồng.

            Vụ nổ không xảy ra.

g/ Thiệt hại do thiên tai

            Lũy kế 06 tháng đầu năm 2022, trên địa bàn tỉnh xảy ra 01 vụ thiên tai, không tăng/giảm so với cùng kỳ năm trước; không  thiệt hại về người, không tăng/giảm so với cùng kỳ năm trước; tài sản thiệt hại 65 triệu đồng./.

*Đính kèm file: “BC tình hình kinh tế-xã hội 6 tháng đầu năm 2022” 

Nguyễn Hồng Thiện
(Phòng thống kê Tổng hợp)
 

 
Thống kê truy cập
  • Đang online: 12
  • Hôm nay: 441
  • Trong tuần: 5231
  • Tất cả: 966355

Copyright © 2016 CỤC THỐNG KÊ TỈNH NINH THUẬN

ĐƯỜNG 16 THÁNG 4, PHƯỜNG MỸ HẢI,  TP. PHAN RANG - THÁP CHÀM, NINH THUẬN

Điện thoại: 0259 3 830318  * Email: ninhthuan@gso.gov.vn