1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản
xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tháng 4/2022 bước vào giai đoạn thu hoạch đại
trà lúa, hoa màu vụ đông xuân. Chăn nuôi heo, gia cầm phát triển tốt; trong khi
chăn nuôi dê, cừu giảm do đồng cỏ tự nhiên ngày càng thu hẹp. Hoạt
động thủy sản duy trì ổn định.
a/ Nông nghiệp
Tính đến ngày
15/4/2022, cả tỉnh gieo trồng được 17.875,6 ha lúa, tăng 2,8% so với cùng kỳ
năm trước. Huyện Ninh Phước vẫn là địa phương có
diện tích lúa đông xuân lớn nhất với 5.403,9 ha, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm
trước. Cây lúa sinh trưởng kém
hơn cùng kỳ do ảnh hưởng thời tiết nắng hanh khô dài ngày hơn, trong tháng 3 và
đầu tháng 4 có các cơn mưa bất thường. Nguồn nước
tưới dồi dào, sâu bệnh rải rác, không đáng kể.
Lúa đông xuân đã thu hoạch được 7.362 ha/ 17.875,6 ha, đạt
41,2% diện tích gieo cấy; năng suất thu hoạch sơ bộ đạt 67,2 tạ/ ha, giảm 0,9 tạ/ha
so đông xuân năm trước.
Tính đến giữa
tháng Tư, cả tỉnh đã gieo trồng được 2.764,3 ha ngô, tăng 1,1% so với
cùng kỳ năm trước; 89,8 ha khoai lang, tăng 45,8%; 292 ha lạc, tăng 8,8%;
3.759,7 ha rau đậu, giảm 7,1%. Nhìn
chung, cây màu các loại được gieo trồng đúng thời vụ, đủ nước tưới nên phát triển
khá tốt. Diện tích cây màu thu hoạch ước đạt 75-80%.
Ước
tính tháng Tư, đàn trâu giảm 0,6% so với
cùng thời điểm năm trước; đàn bò giảm 1,5%. Đàn heo tăng 7% do người nuôi tiếp
tục tái đàn, giá bán đang có xu hướng giảm do nguồn cung dồi dào. Đàn dê, cừu
giảm 2,7% do đất đai dành cho các dự án điện năng lượng mặt trời, điện gió ngày
càng nhiều làm đồng cỏ tự nhiên giảm, thức ăn xanh cho đàn dê, cừu khó khăn.
Đàn gia cầm tăng 10,1%.
b/ Lâm
nghiệp
Sản
xuất lâm nghiệp của tỉnh trong tháng chủ yếu tập trung vào công tác chăm sóc, bảo vệ rừng.
Trong tháng Tư, sản lượng
gỗ khai thác đạt 115,6 m3, giảm 2,3%; sản lượng củi khai thác đạt
1.042,5 ste, tăng 4,3%. Lũy kế
4 tháng năm 2022, số cây lâm nghiệp trồng
phân tán đạt 6,6 nghìn cây, tăng 55,4%; sản lượng gỗ khai thác đạt 629,6 m3,
giảm 43,7%; sản lượng củi khai thác đạt 7.442,5 ste, giảm 0,8%.
Diện tích rừng bị thiệt hại do chặt, phá trong tháng Tư là 0,3 ha,
giảm mạnh 73% so với cùng kỳ năm trước; nâng lũy kế diện tích rừng bị thiệt hại
4 tháng đầu năm là 3,4 ha, giảm 57,8%.
c/ Thuỷ sản
Trong tháng Tư, sản lượng thủy sản cả tỉnh ước đạt 7.933,4 tấn,
tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 6.946,9 tấn, tăng 0,4%; tôm
đạt 296,1 tấn, tăng 4,2%; thủy sản khác đạt 690,4 tấn, giảm 1,3%.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, sản lượng thủy sản ước đạt
31.998,2 tấn, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng nuôi trồng
đạt 2.185 tấn, tăng 2,1%; sản lượng khai thác đạt 29.813,2 tấn, tăng 1,8% (chủ
yếu là sản lượng thủy sản khai thác biển).
Sản xuất giống thủy
sản tháng Tư ước đạt 4,7 tỷ con, tăng 11,7% so cùng kỳ năm trước; trong đó tôm
giống ước đạt 4,6 tỷ con, tăng 10,7%. Tính chung 4 tháng đầu năm, lượng giống sản
xuất 15,3 tỷ con, tăng 6,8%; trong đó tôm giống ước đạt 15,2 tỷ con, tăng 6,3%.
2. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công
nghiệp toàn ngành tháng Tư ước tính tăng 10,68% so với cùng kỳ năm trước, trong bối cảnh
đà tăng của ngành sản xuất và phân phối điện chủ lực chậm lại, chỉ tăng 3,25%,
mức thấp nhất các năm 2019-2022 , và ngành chế biến, chế tạo đạt mức tăng cao
41,97%, cao nhất các năm 2017-2022 . Tính
chung 4 tháng đầu năm 2022, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 6,56%
so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành sản xuất và phân phối điện chỉ
tăng 3,57%, thấp nhất các năm 2019-2022.
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP)
tháng 4/2022 ước giảm 3,2% so với tháng trước và tăng 10,68% so với cùng kỳ năm
trước, trong đó ngành chế biến, chế tạo tăng cao 41,97% do một số sản phẩm chủ
chốt tăng mạnh như chế biến
thực phẩm ước tăng 58,82%,
sản xuất đồ uống (chủ yếu bia đóng lon) tăng 50,9%; sản
xuất và phân phối điện tăng 3,25%; cung cấp nước và xử lý rác thải giảm 8,14%.
Tính
chung 4 tháng đầu năm 2022, IIP ước tính tăng 6,56% so với cùng kỳ năm trước
(năm 2020 tăng 52,19%; năm 2021 tăng 48,86%). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo
tăng 18,63%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,57%; ngành cung cấp nước,
hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,6%; riêng ngành khai
khoáng giảm 2,08%.
Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 4 tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước: sản xuất đồ uống (chủ
yếu bia đóng lon) tăng 33,38%; Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 29,77%; dệt
tăng 20,56%. Bên cạnh đó, một số ngành có chỉ số giảm hoặc tăng thấp: Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm
13,3%; in, sao chép bản ghi
các loại giảm 13,24%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 2,1%; sản xuất
trang phục tăng 2,64%.
Một
số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 4 tháng đầu năm 2022 tăng so với cùng kỳ năm
trước: tôm đông lạnh tăng
109,4%; thạch nha đam tăng
106,5%;
bia đóng lon tăng 37,9%; điện gió tăng 26,3%. Một số sản
phẩm giảm: tinh bột mỳ giảm 31,8%; đường RS giảm 17,2%; xi măng Portland đen giảm
12,3%; muối biển khai thác giảm
12,1%; hạt điều khô giảm
9,4%; điện mặt trời giảm 2%.
3. Tình hình đăng ký doanh
nghiệp
Trong 4 tháng đầu
năm 2022, tình hình đăng ký, hoạt động doanh nghiệp có nhiều dấu hiệu khởi sắc.
Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 59,1% so với cùng kỳ năm 2021; số vốn
đăng ký mới tăng 9,4 lần; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 90,7%; số doanh nghiệp
hoàn tất thủ tục giải thể tự nguyện, giảm 34,4% và số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt
động, giảm 4,1%.
Trong tháng Tư, có 35 doanh nghiệp thành lập mới/207,1 tỷ đồng,
tăng 59,1% số doanh nghiệp và số vốn đăng
ký tăng 82,6% so cùng kỳ; lũy kế 4 tháng năm 2022, có 181 doanh nghiệp thành lập
mới/10.241 tỷ đồng, tăng 41,4% số doanh nghiệp (181/128 DN) và số vốn đăng ký
tăng 9,4 lần so cùng kỳ.
Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 90,7% so cùng kỳ (82/43 DN); có 21 doanh nghiệp hoàn
tất thủ tục giải thể tự nguyện, giảm 34,4% và có 93 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt
động, giảm 4,1% so cùng kỳ. Tính đến ngày 15/4/2022, có tổng số 3.942 doanh
nghiệp đang hoạt động với số vốn 89.420 tỷ đồng.
4. Đầu tư
Trong tháng,
Ninh Thuận tiếp tục thúc đẩy tiến độ giải ngân vốn đầu tư công thi công các
công trình, dự án. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng
4/2022 ước tính đạt 146,6 tỷ đồng, đạt mức tăng cao nhất so với cùng kỳ năm trước
trong các năm 2016-2022. Tính chung 4 tháng đầu năm, vốn đầu tư thực hiện từ
nguồn ngân sách Nhà nước tăng 88% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng cao nhất
so với cùng kỳ năm trước trong các năm 2016-2022.
Vốn đầu tư phát triển từ
nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tháng Tư ước tính đạt 146,6 tỷ đồng,
tăng 58,4% so với cùng kỳ năm
trước, trong đó vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh: 78,6 tỷ đồng, tăng 11,3%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện:
68,1 tỷ đồng, tăng 2,1 lần.
Tính chung 4 tháng đầu
năm 2022, vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa
phương quản lý đạt 565,4 tỷ đồng, tăng 88% so với cùng kỳ năm 2021; trong đó vốn
ngân sách nhà nước cấp tỉnh: 323,4 tỷ đồng, tăng 47,7%; vốn ngân sách nhà nước
cấp huyện: 242 tỷ đồng, tăng 198,8%.
5. Tài chính, Ngân hàng
a/ Tài chính
Tình hình nhập khẩu trang
thiết bị phục vụ các dự án năng lượng tái tạo giảm là nguyên nhân chính làm giảm
sâu chỉ tiêu thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu, kéo Tổng thu ngân sách Nhà nước
giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước. Chi ngân sách Nhà nước tập trung bảo đảm
các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, y tế và quản lý
Nhà nước.
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời
điểm 30/4/2022 ước tính đạt 1.220,5 tỷ đồng, đạt 35% dự toán năm, giảm 21% so với
cùng kỳ năm trước. Trong đó: thu nội địa (không
kể thu dầu thô) đạt 1.207,5 tỷ đồng, đạt 40,4% dự toán năm (1.207,5 / 2.290
tỷ đồng), tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu
13 tỷ đồng, đạt 2,6% (13 / 500 tỷ đồng) và giảm 96,3%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước (không tính chi từ nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ) ước tính đạt 2.313,7 tỷ đồng, đạt
36% dự toán năm.
b/ Ngân hàng
Hoạt động
tiền tệ, ngân hàng trên địa bàn trong tháng Tư tiếp tục ổn định và an toàn. Huy
động vốn và dư nợ tín dụng tiếp tục có sự tăng trưởng so với tháng trước và cuối
năm 2021. Tỷ lệ nợ xấu vẫn trong tầm kiểm soát.
Theo báo
cáo của Ngân hàng nhà nước chi nhánh tỉnh Ninh Thuận, ước đến cuối tháng 4/2022: Nguồn vốn huy động trên địa bàn ước
đạt 19.500 tỷ đồng, tăng 0,9% (tăng 171,7 tỷ đồng)
so với tháng trước; tăng 4,6% (tăng 863 tỷ đồng) so với cuối năm 2021;
bằng 93,4% kế hoạch năm 2022. Tổng dư nợ tín dụng ước đạt 33.900 tỷ đồng,
tăng 0,9% (tăng 316,8 tỷ đồng) so với tháng trước; tăng 1,7% (tăng 564 tỷ đồng) so với cuối năm 2021; bằng 88,4% kế hoạch năm 2022.
Dư nợ xấu trên địa bàn là 225 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 0,66% so với tổng dư nợ, bằng với tỷ lệ nợ xấu cuối tháng
trước (số tuyệt đối tăng 2 tỷ đồng) và tăng 0,04% so với tỷ lệ nợ xấu cuối năm
2021 (số tuyệt đối tăng 15,7 tỷ đồng).
6.
Thương mại, giá cả, dịch vụ
a/ Bán
lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tình hình dịch COVID-19 ổn định và các ngày nghỉ lễ
trong tháng tạo điều kiện cho các hoạt động thương mại, dịch vụ trên địa bàn tỉnh
tiếp tục phục hồi đà tăng trưởng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ
tiêu dùng tháng Tư tăng 5,4% so với
tháng trước và tăng 17% so
với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4
tháng đầu năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 14,6% so với cùng kỳ năm
trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh
thu dịch vụ tiêu dùng tháng Tư ước tính đạt 2.589,5 tỷ
đồng, tăng 5,4% so với tháng trước
và tăng 17% so với cùng kỳ
năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 2.118,7
tỷ đồng, tăng 5,2% và tăng 18,7%; doanh
thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 288,7 tỷ đồng, tăng 9% và tăng 7,8%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 0,3 tỷ đồng, tăng 166,7% và giảm 46,2%; doanh thu
dịch vụ khác đạt 181,8 tỷ đồng,
tăng 2,2% và tăng 12,9%.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2022,
tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 9.970,9
tỷ đồng, tăng 14,6% so với cùng kỳ năm trước.
Xét theo ngành hoạt động 4 tháng đầu năm nay: Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 8.120,6 tỷ đồng, chiếm 81,4% tổng mức và tăng 16,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, đồ dùng, dụng cụ,
trang thiết bị gia đình tăng 20,7%;
vật phẩm văn hoá,
giáo dục tăng 10,4%; lương thực, thực phẩm
tăng 9,6%;
phương tiện đi lại giảm 0,3%; may mặc giảm 10,8%. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước tính đạt 1.123,1 tỷ đồng, chiếm 11,3% tổng mức và tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước. Doanh
thu du lịch lữ hành ước tính đạt 0,5 tỷ đồng, chiếm 0,005% và giảm 47,5%. Doanh
thu dịch vụ khác ước tính đạt 726,8 tỷ đồng, chiếm 7,3% và tăng 8,5%.
b/ Chỉ
số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Giá vàng biến động cùng chiều với giá vàng thế
giới, chỉ số giá vàng tháng 4/2022 tăng 0,69% so với tháng trước và tăng 8,34%
so cùng kỳ năm trước; giá vàng 9999 hiện ở mức 5.600.000 đồng/chỉ. Giá đô la Mỹ
giảm 0,64% so với tháng trước và giảm 2,10% so cùng kỳ năm trước; giá đô la Mỹ
hiện ở mức 23.300 đồng/USD.
c/ Vận tải hành khách và hàng hóa
Tình hình dịch
COVID-19 được kiểm soát tốt đã thúc đẩy hoạt động vận tải trong tháng Tư tăng mạnh
so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước, nhất là vận tải hành khách.
Vận tải hành
khách tháng Tư ước đạt 0,4 triệu lượt hành khách vận chuyển, tăng 66,4% so với
tháng trước và luân chuyển 28 triệu lượt hành khách.km, tăng 51,9%. Tính chung
4 tháng đầu năm 2022, vận tải hành khách đạt 1,8 triệu lượt hành khách
vận chuyển, tăng 27,8% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 136,3 triệu lượt
hành khách.km, tăng 27,2%. Toàn bộ
là hoạt động vận tải đường
bộ trong nước.
Vận tải hàng hóa
trong tháng ước đạt 0,6 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 8,4% so với tháng
trước và luân chuyển 47,1 triệu tấn.km, tăng 2,2%. Lũy kế 4 tháng, vận tải
hàng hóa đạt 2,5 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm
trước và luân chuyển 185,4 triệu tấn.km, tăng 12,7%. Toàn bộ là hoạt động vận tải đường bộ trong nước.
7. Một
số vấn đề xã hội
a/ Đời sống dân cư, công tác an sinh xã hội
Trong tháng Tư, công tác chăm lo cho
các đối tượng chính sách Người có công với cách mạng, các hộ
nghèo, cận nghèo, bảo trợ xã hội, Người Cao tuổi,... tiếp tục được triển khai thực
hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng. Đời sống dân cư nhìn chung ổn định.
Tổ chức thăm tặng quà đối
tượng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng và người tham gia hoạt động kháng chiến và tổ chức
lễ viễng nghĩa trang liệt sĩ nhân dịp kỷ niệm 30 năm Ngày tái lập tỉnh
(01/4/1992-01/4/2022) gắn với 47 năm ngày giải phóng Ninh Thuận (16/4/1975 –
16/4/2022).
Tổ chức trao 01 sổ tiết kiệm trị giá 20 triệu đồng
cho trẻ em; thăm, hỗ trợ cho 06 em mồ côi do COVID và 01 em con sản phụ nhiễm
COVID-19 với tổng số tiền 38 triệu đồng.
Tính
đến ngày 15/4/2022, đã thực hiện hỗ trợ theo quy định tại Nghị quyết 68/NQ-CP
cho 90.277 lượt lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 với kinh phí
126,6 tỷ đồng.
b/ lao động, việc làm
Công tác tư vấn giới thiệu việc làm tiếp tục được triển khai đầy
đủ và kịp thời. Trong tháng đã tư vấn giới thiệu việc làm cho 1.773 lượt người, nâng tổng số người được tư vấn, giới
thiệu việc làm trong 4 tháng đầu năm là 5.665/15.000 lượt người
đạt tỷ lệ 37,8%. Kết nối việc làm được 59 người trong tháng Tư, nâng tỷ lệ lao động tìm được việc
làm qua Trung tâm Dịch vụ việc làm đến tháng 4/2022 đạt 17,9% (179/1.000 người). Số người lao động nộp hồ sơ đề nghị hưởng bảo hiểm thất
nghiệp là 486 hồ sơ, số người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng
tháng 386 hồ sơ với kinh phí chi trả hơn 7 tỷ đồng, nâng tổng số hồ sơ có Quyết
định hưởng bảo hiểm thất nghiệp 4 tháng đầu năm lên 1.398 người với số tiền chi
23,2 tỷ đồng.
c/ Giáo dục
Triển khai Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐND ngày
25/3/2022 của HĐND tỉnh quy định mức thu học phí trong năm học 2022-2023 và
vùng thu học phí từ năm học 2022-2023 đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống
giáo dục quốc dân trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.
Tổ chức kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh năm học
2021-2022 từ ngày 16/4/2022 đến 17/4/2022; gồm 09 môn thi: Toán, Vật lý, Hóa học,
Sinh học, Tin học, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý và Tiếng Anh, với số thí sinh dự
thi có 827 em, trong đó cấp THCS 330 em và cấp THPT 497 em.
d/ Chăm sóc sức khỏe cộng đồng
Dịch bệnh COVID-19 trên địa bàn tỉnh cơ bản được kiểm soát tốt, ca bệnh
giảm mạnh so với tháng trước. Trong tháng (từ
ngày 21/3/2022 đến 19/4/2022) có 715 người mắc, giảm 23,2% (giảm 216 người)
so với tháng trước; số người được
điều trị khỏi xuất viện 618 người, tăng
1,5%. Tính chung đợt dịch thứ 4 (từ
ngày 27/4/2021 đến 19/4/2022), phát hiện 8.684 người mắc bệnh; có 8.606 người
được điều trị khỏi xuất viện; 59 người tử vong; số người
đang điều trị là 19.
Công tác giám sát được
duy trì thường xuyên tại các tuyến. Tính đến ngày 19/4/2022 toàn tỉnh có 41 trường
hợp mắc Sốt xuất huyết, giảm 66,7% so với cùng kỳ (41/123); 02 trường hợp mắc
Tay chân miệng, giảm 95,8% (02/48). Các bệnh dịch truyền nhiễm khác chỉ mắc tản
phát.
Trong tháng không phát sinh ca ngộ độc thực phẩm, không tăng không giảm
so với tháng trước và cùng kỳ năm trước. Lũy kế 4 tháng đầu năm 2022 không phát
sinh ca ngộ độc thực phẩm, không tăng không giảm so với cùng kỳ năm trước.
d/ Văn hóa, thể
thao
Triển lãm thành tựu kinh tế
- xã hội “Ninh Thuận - 30 năm một chặng đường đổi mới và phát triển; tổ chức tuần
lễ du lịch di sản văn hóa Chăm; Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày tái lập tỉnh; phối hợp tổ
chức Lễ đón nhận Bằng công nhận Khu dự trữ sinh quyển thế giới Núi Chúa và Bằng
xếp hạng di tích quốc gia danh lam thắng cảnh Vịnh Vĩnh Hy”.
Tổ chức thành công Giải Quần vợt phong trào
tỉnh Ninh Thuận năm 2022 - Cúp Trung Nam Group; triển khai Kế hoạch tổ chức
Giải xe đạp phong trào tỉnh Ninh Thuận năm 2022 Cúp Trung Nam Group vào ngày
23/4/2022. Cử huấn luyện viên, vận động viên của tỉnh tham gia đoàn Taekwondo
Việt Nam dự Giải Vô địch Taekwondo Đông Nam Á lần thứ 15 năm 2022; thành lập
Ban Tổ chức Giải Cờ vua học sinh các cấp và Ban tổ chức Giải các Câu lạc bộ
Vovinam Ninh Thuận năm 2022; thành lập Đoàn Điền kinh tỉnh tham gia Giải Điền
kinh Cúp Tốc độ Thống Nhất TP Hồ Chí Minh năm 2022.
Hoạt động du lịch trong
tháng 4/2022 tiếp tục phát triển khá sôi nổi và nhộn nhịp, nhất là hoạt động
tham quan, nghỉ dưỡng dịp Lễ Giỗ tổ Hùng Vương từ ngày 09-11/4/2022.
đ/ Tai nạn giao
thông
Trong
tháng (từ ngày 15/3 đến ngày
14/4/2022), xảy
ra 16 vụ tai nạn giao thông, làm 07 người chết, 15 người bị thương. So với tháng trước, số vụ tai nạn giao
thông tăng 166,7% (tăng 10 vụ); số người chết tăng 250% (tăng 05 người); số người bị thương tăng 200% (tăng 10 người). So với cùng kỳ năm trước, số vụ tăng 45,5% (tăng 05 vụ); số người chết không tăng không giảm;
số người bị thương tăng 25% (tăng 03 người).
Tính
chung 04 tháng năm 2022, cả tỉnh đã xảy ra 46 vụ tai nạn giao thông, làm 19 người
chết, 44 người bị thương. So với cùng kỳ
năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 23,3% (giảm 14 vụ); số người chết
giảm 29,6% (giảm 08 người); số người bị thương giảm 26,7% (giảm 16 người). Bình
quân 2,65 ngày xảy ra 01 vụ tai nạn giao thông.
e/ Tình hình cháy, nổ và bảo vệ
môi trường
Trong tháng báo cáo, trên địa bàn tỉnh xảy ra
01 vụ cháy; không thiệt hại về người; tài sản thiệt hại khoảng 56 triệu đồng. So với tháng trước, số vụ cháy tăng 01
vụ; thiệt hại về người không tăng không giảm; thiệt hại về tài sản tăng 56 triệu
đồng. So với cùng kỳ năm trước, số vụ
cháy không tăng không giảm; thiệt hại về người không tăng không giảm; thiệt hại
về tài sản giảm 39,6 triệu đồng.
Lũy kế 4 tháng đầu năm
2022, trên địa bàn tỉnh xảy ra 02 vụ cháy; không thiệt hại về người; tài sản
thiệt hại 152 triệu đồng. So với cùng kỳ
năm trước, số vụ cháy giảm 01 vụ; thiệt hại về người không tăng không giảm;
thiệt hại về tài sản giảm 46,6 triệu đồng.
Vụ
nổ không xảy ra.
g/ Thiệt hại do thiên tai
Trong tháng Tư không xảy ra thiên tai, không tăng
không giảm so với tháng trước và cùng kỳ năm trước.
Lũy kế 4 tháng đầu năm 2022, trên địa bàn tỉnh xảy ra
01 vụ thiên tai, tăng 01 vụ so với cùng kỳ năm trước; không thiệt hại về người,
không tăng không giảm so với cùng kỳ năm trước; tài sản thiệt hại 65 triệu đồng,
tăng 65 triệu đồng so với cùng kỳ năm trước./.
*Đính
kèm file: “Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội tháng 4 năm 2022”
Nguyễn
Hồng Thiện