1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung chủ
yếu vào gieo cấy và chăm sóc cây trồng vụ Đông xuân, nguồn nước tưới thuận lợi
nên diện tích gieo trồng tăng so với cùng kỳ năm trước. Chăn nuôi heo tiếp tục
đà tăng trưởng, dê cừu vẫn xu hướng giảm, và đàn gia cầm phát triển tốt. Lâm
nghiệp chủ yếu chăm sóc và bảo vệ rừng. Sản lượng thủy sản giảm mạnh do khai
thác biển giảm.
a/ Nông nghiệp
Tính đến thời điểm 15/01/2022, cả tỉnh gieo cấy được
17.554 ha lúa Đông xuân, tăng 36,5% so với cùng kỳ năm trước. Vụ Đông xuân năm nay thuận lợi về nguồn nước
tưới do mưa nhiều ở cuối năm trước, lượng
nước tại các hồ chứa trên địa bàn tỉnh và hồ Đơn Dương dồi dào.
Cùng với việc gieo cấy lúa đông xuân,
đến trung tuần tháng Một, các địa phương trên cả tỉnh gieo trồng được 2.695 ha
ngô, giảm 1,4% so cùng kỳ năm trước; 54,5 ha khoai lang, giảm 11,5%; 268,4 ha
lạc, tăng 3,2%; 4.367 ha rau, đậu, tăng 7,9%.
Ước tính tháng Một, đàn bò giảm 1,4% so với
cùng thời điểm năm trước; đàn trâu giảm 0,7%; đàn heo tăng 13,1%; đàn dê, cừu giảm 3% so cùng kỳ (dê giảm 1,5%, cừu giảm
4,7%); đàn gia cầm tăng 11,2%. So cùng kỳ, giá cả sản phẩm thịt hơi giảm mạnh. Dự kiến
giá lợn từ nay đến tết sẽ tăng rất chậm (không đột biến) vì cung thừa nhưng cầu
thấp, mức độ cạnh tranh sản phẩm gia súc, gia cầm của tỉnh là rất kém so với sản
phẩm giá rẻ cùng loại chuyển từ ngoài vào. Bệnh Dịch tả lợn châu Phi có 19 con mắc bệnh, nhưng được
phát hiện sớm và xử lý kịp thời, dịch đã qua 20 ngày không phát sinh con bệnh mới.
b/ Lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp
trong tháng Một chủ yếu tập trung vào
công tác chăm sóc, bảo vệ rừng. Khai thác lâm sản khu vực nhà nước không
thực hiện, chủ yếu khai thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ khu vực cá thể và thu gom
các sản phẩm phụ từ rừng trồng ở các Ban Quản lý rừng và các Doanh nghiệp nhà
nước được giao chỉ tiêu. Sản lượng gỗ khai thác ước đạt 160 m3,
giảm 50% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng củi khai thác đạt 2.050 ste, giảm
2,4%.
Trong tháng Một không xảy
ra cháy rừng do thời tiết lạnh; diện tích rừng bị thiệt hại là 1 ha do bị chặt,
phá, tăng 54,7% so với cùng kỳ năm 2021.
c/ Thuỷ sản
Trong tháng Một, sản lượng thủy sản cả tỉnh ước đạt 6.931,0 tấn,
giảm 33% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 6.376,3 tấn, giảm 34,8%; tôm
đạt 215,9 tấn, giảm 6,8%; thủy sản khác đạt 338,8 tấn, tăng 4,4%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong
tháng ước tính đạt 439 tấn, giảm 0,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt
55 tấn, giảm 8,3%; tôm đạt 195 tấn, giảm 7,1%; thủy sản khác đạt 189 tấn, tăng
11,2%.
Sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 6.492 tấn, giảm 34,4% so với
cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 6.321,3 tấn, giảm 35%; tôm đạt 20,9 tấn, giảm
3,3%; thủy sản khác đạt 149,8 tấn, giảm 3,1%.
Sản lượng
giống thủy sản sản xuất tháng này ước đạt 3.720 triệu con, giảm 11,7% so cùng kỳ
năm 2021, trong đó tôm giống ước đạt 3.700 triệu con, giảm 11,9%. Tình hình sản
xuất và kinh doanh giống thủy sản của tỉnh trong tháng vẫn tiếp tục xu hướng giảm
từ các tháng cuối năm 2021 do ảnh hưởng dịch bệnh COVID-19.
2. Sản xuất công nghiệp
Sản
xuất công nghiệp có bước chững lại do số ngày làm việc giảm và trời ít nắng điện
mặt trời giảm sản lượng, nên chỉ số sản xuất công nghiệp tháng Một ước giảm
3,87% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, ngành sản xuất và phân phối điện ước
giảm 0,36%.
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp
(IIP) tháng 01/2022 ước tính giảm 0,46% so với tháng trước và giảm 3,87% so với
cùng kỳ năm trước; trong đó ngành sản xuất và phân phối điện giảm 0,36% so cùng
kỳ năm trước (hiện đóng góp chủ yếu chỉ số
sản xuất toàn ngành công nghiệp) vì sản xuất điện giảm 4,9% do bức xạ mặt trời giảm (ít nắng); ngành chế biến, chế tạo ước giảm 14,83%
do thời gian hoạt động trong tháng ít hơn so
tháng cùng kỳ 2021, một số doanh nghiệp ngành chế biến thực phẩm, may mặc cho lao động
nghỉ trước Tết (07 ngày); ngành khai khoáng ước giảm 26,82%.
Riêng ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,82%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tháng
01/2022 tăng thấp hoặc giảm so với
cùng kỳ năm trước: muối biển tăng 8,3%; tôm
đông lạnh không tăng không giảm; nước yến và nước bổ dưỡng khác giảm 7,4%; điện
mặt trời giảm 7,9%; bia đóng lon giảm 12,1%; bộ com-lê, quần áo đồng bộ
giảm 12,8%; gạch xây dựng bằng đất sét nung giảm 14,1%; khăn mặt, khăn tắm giảm
14,9%; hạt điều khô giảm 15,3%; xi măng Portland đen giảm 20,5%; thủy điện giảm
29,1%; đường RS giảm 36,3%; đá xây dựng khác giảm 38,4%; tinh bột sắn giảm
83,6% do sản phẩm không xuất sang thị trường Trung Quốc được, trong tháng Một
công ty chỉ hoạt động 07 ngày trước khi nghỉ tết. Một vài sản phẩm tăng cao: thạch nha đam tăng 88,1%; phân vi sinh
tăng 40%; sợi xe tăng 33,3%; điện gió tăng 27%.
3. Tình hình đăng ký doanh
nghiệp
Tình hình dịch bệnh COVID-19 đang được
kiểm soát là nguyên nhân làm cho số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng
78,3%; số vốn đăng ký mới tăng 9,1% và số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động
tăng 90,3% so với cùng kỳ năm trước.
Tình hình đăng ký
doanh nghiệp trong tháng Một có chiều hướng tích cực, khả quan hơn những tháng
trước. Nguyên nhân tăng là do tình hình dịch bệnh COVID-19 đang được kiểm soát,
đời sống người dân vào trạng thái bình thường mới. Tính đến ngày 20/01/2022, cả
tỉnh có 41 doanh nghiệp (DN) thành lập mới, tăng 78,3% so với cùng kỳ năm 2021.
Số vốn đăng ký mới là 678,8 tỷ đồng, tăng 9,1%. Vốn đăng ký bình quân một doanh
nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 16,6 tỷ đồng, giảm 38,5%.
Có 59 doanh nghiệp
quay trở lại hoạt động, tăng 90,3%; 09 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 25% và có 53 doanh nghiệp
tạm ngừng hoạt động, giảm 25,4% so cùng kỳ. Tổng số doanh nghiệp đang hoạt động đến ngày
20/01/2022 là 3.814 doanh nghiệp/78.123,9 tỷ đồng.
4. Đầu tư
Hoạt
động đầu tư trong tháng Một tập trung chủ yếu vào thi công các công trình chuyển
tiếp từ năm trước, hoàn tất các thủ tục nghiệm thu, thanh toán khối lượng hoàn
thành của năm 2021.
Vốn đầu tư thực hiện từ
nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tháng Một ước tính đạt 74,3 tỷ đồng,
tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước,
trong đó vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 49,8 tỷ đồng, giảm 28,7%; vốn ngân
sách nhà nước cấp huyện 24,5 tỷ đồng, tăng 7,5 lần.
Nguyên
nhân vốn đầu tư tăng so với cùng kỳ là do các dự án trọng điểm của tỉnh đang trong giai đoạn
triển khai nước rút, vì các nhà thầu cam kết thực hiện đúng theo tiến độ đã ký
cam kết trong hợp đồng.
5. Thu, chi ngân sách Nhà nước
Trong tháng 01/2021, các khoản
thu đạt thấp do ảnh hưởng dịch bệnh COVID-19; chi ngân sách đáp ứng các nhiệm vụ
đầu tư phát triển, chi trả nợ, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hoạt động của bộ
máy Nhà nước.
Tổng thu
ngân sách Nhà nước đến ngày 31/01/2022 ước tính đạt 262,7 tỷ đồng, đạt 7,5% dự
toán năm, trong đó thu nội địa (không kể thu dầu thô) đạt 262 tỷ đồng, đạt
8,8%, giảm 80,6% so với cùng kỳ năm trước; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu 0,7
tỷ đồng, đạt 0,14%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước 15 ngày đầu tháng Một đạt 47 tỷ đồng, đạt 0,7% dự
toán năm.
6.
Thương mại, giá cả, dịch vụ
a/ Bán
lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng
mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh trong
tháng Một tương đối ổn định và tăng trưởng khá so với tháng trước và cùng kỳ
năm trước, đặc biệt là doanh thu bán lẻ hàng hóa. Nguồn cung hàng hóa dồi dào, hàng hoá
được lưu thông thông suốt nhằm phục vụ tốt nhất cho người dân trong dịp Tết
Nguyên đán.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng
01/2022 ước tính đạt 2.532,6 tỷ đồng, tăng 7,5% so với
tháng trước và tăng 13,5% so với cùng kỳ năm 2021.
Xét theo ngành hoạt động tháng Một: Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 2.070,9 tỷ đồng, chiếm 81,8% tổng mức, tăng 8,3% so với tháng trước và tăng 18,9% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: Lương thực, thực phẩm
tăng 13,6% và tăng 18,3%; may mặc tăng 12,4% và giảm 6,9%; phương tiện đi lại
tăng 17,6% và giảm 28,2%; vật phẩm văn hoá,
giáo dục tăng 4,7%
và tăng 23,7%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 8,2%
và tăng 19,3%. Năm nay, Tết Nguyên đán trùng vào đầu
tháng 02/2022, nên việc mua sắm hàng hóa phục vụ Tết tập trung toàn bộ vào tháng
01/2022. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn
uống ước tính đạt 285,1 tỷ đồng, tăng 2% so với tháng
trước và giảm 6,3% so với cùng kỳ năm trước do trong tháng
tình hình dịch bệnh dần được kiểm soát, các
nhà hàng, quán ăn hoạt động tương đối nhiều đã góp phần kiềm chế mức giảm doanh
thu ngành này so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu du lịch lữ hành
ước tính đạt 0,02 tỷ đồng, tăng 2 lần so với
tháng trước và giảm 89,4% so với cùng kỳ năm trước. Doanh
thu dịch vụ khác ước tính đạt 176,6 tỷ đồng, tăng 6,7% so với tháng trước và giảm 5% so với cùng kỳ năm trước.
b/ Chỉ
số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Tháng
01/2022 là tháng giáp Tết Nguyên đán Nhâm Dần nên nhu cầu mua sắm hàng hóa của
người dân tăng cao. Giá xăng, dầu tăng và ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19 làm
chi phí hoạt động phát sinh tăng trong giá thành sản phẩm là những nguyên nhân
làm chỉ số giá tiêu dùng tháng 01/2022 tăng 0,16% so với tháng trước và tăng
2,87% so với cùng kỳ năm trước.
Trong mức tăng 0,16% của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng
01/2022 so với tháng 12/2021 có 07/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá
tăng, trong đó: nhóm Văn hoá, giải trí và du lịch tăng cao nhất
với 3,93% do tỉnh cho
phép “mở cửa” đón khách du lịch nội địa với chương trình “Người Việt Nam đi du
lịch Việt Nam”
để lấy lại đà tăng trưởng, từng bước phục hồi, đưa hoạt động du lịch trong tỉnh
thích ứng an toàn, linh hoạt, đảm bảo phòng, chống dịch COVID-19; bên cạnh đó,
tỉnh Ninh Thuận thuộc vùng xanh (cấp độ 1), nhu cầu du lịch trên địa bàn tỉnh
trong tháng tăng lên đáng kể so với tháng trước, chi phí tăng như giá xăng dầu,
test COVID-19… đã làm cho giá du lịch trọn gói tháng này tăng cao 22,3% so với
tháng trước. Nhóm May mặc, giày dép và mũ nón tăng 1,26% do nhu
cầu mua sắm vào dịp Tết Nguyên đán tăng, cộng với chi phí vận chuyển tăng đã
làm cho nhiều nhóm mặt hàng này tăng, cụ thể: quần áo may sẵn tăng 1,60%, may mặc khác và mũ nón tăng 1,08%, giày dép
các loại tăng 0,28%. Nhóm Giao thông tăng 1,15% do ảnh hưởng của đợt điều chỉnh tăng giá xăng, dầu vào thời điểm 11/01/2022
và 21/01/2022 làm chỉ số giá xăng, dầu tăng 2,49%
(tác động làm CPI chung tăng 0,07
điểm phần trăm). Nhóm Đồ uống và thuốc lá tăng 0,52% do giá một số loại nước ép
trái cây và thuốc hút tăng vì nhu cầu tiêu dùng chuẩn bị tết Nguyên đán Nhâm
Dần 2022 và chi phí sản xuất tăng. Nhóm
Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,19%; nhóm Giáo dục tăng 0,02%; nhóm
Thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,01%. Có 3/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm, gồm: nhóm
Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,41% do giá lúa gạo giảm và các mặt hàng thực
phẩm giảm vì nguồn cung tăng. Nhóm Nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 0,05%; nhóm
Hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,01%. Còn lại nhóm Bưu chính viễn thông ổn định.
Chỉ số giá vàng tăng 1,06% so với tháng trước nhưng giảm
4,17% so cùng kỳ năm trước; giá vàng 9999 hiện ở mức 5.280.000 đồng/chỉ. Giá đô
la Mỹ giảm 0,04% so với tháng trước nhưng tăng 1,03% so cùng kỳ năm trước; giá
đô la Mỹ hiện ở mức 23.500 đồng/USD.
c/ Vận tải hành khách và hàng hóa
Tình hình dịch bệnh COVID-19 dần được kiểm soát giúp cho
lượng hành khách vận chuyển tăng cao 88,7% so với tháng trước và tăng 1,4% so với
cùng kỳ năm trước. Trong khi nhu cầu mua sắm Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022 làm vận
chuyển hàng hóa tăng tương ứng 14,4% và 12,1%.
Vận tải hành khách tháng Một ước tính đạt 0,57 triệu lượt khách vận
chuyển, tăng 88,7% so với tháng trước và
tăng 1,4% so với cùng kỳ năm 2021, là tháng đầu tiên có mức tăng dương về tháng
báo cáo so với cùng kỳ năm trước kể từ tháng 6/2021, thể hiện tình hình dịch bệnh
đang được kiểm soát tốt trong tháng. Luân chuyển 44,5 triệu lượt
khách.km, tăng cao 92,2% so với
tháng trước và tăng 0,4% so với cùng kỳ năm 2021. Toàn bộ là ngành đường bộ.
Vận tải hàng hóa tháng Một ước tính đạt 0,8 triệu tấn hàng hóa, tăng 14,4% so với tháng trước và tăng 12,1% so với cùng kỳ
năm trước; hàng hóa luân chuyển đạt 56,9 triệu tấn.km, tăng 13,4% so với tháng
trước và tăng 11,2% so với cùng kỳ năm 2021. Toàn bộ là ngành đường bộ.
7. Một
số vấn đề xã hội
a/ Đời sống dân cư, công tác an sinh xã hội
Triển khai thực hiện
Nghị quyết số 68/NQ-CP của Chính phủ và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ trên địa bàn tỉnh kịp thời, đầy đủ đến tận tay đối tượng. Tổng 12 chính sách đã hỗ trợ
cho doanh nghiệp và người lao động có đến ngày 15/01/2022 là 75.283 lượt lao động
với kinh phí 113.908,79 triệu đồng. Trong đó: Nhóm chính sách về bảo hiểm:
1.176 đơn vị/ 20.153 lao động/ 13.189,37 triệu đồng; Nhóm chính sách hỗ trợ trực
tiếp cho người lao động: 19.879 hồ sơ/ 34.060,11 triệu đồng; Nhóm chính sách
cho doanh nghiệp vay trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất: 07 đơn
vị/ 1.816 lượt lao động/ 16.506,81 triệu đồng; Nhóm hỗ trợ cho lao động tự do
100% từ ngân sách địa phương: 33.435
lao động/ 50.152,5 triệu đồng.
c/ Giáo dục
Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, ngành Giáo dục
tỉnh tiếp tục chủ động, linh hoạt, kịp thời chỉ đạo, điều chỉnh chương trình dạy
và học. Căn cứ tình hình và cấp độ dịch bệnh tại từng địa phương (cấp độ 1-
vùng xanh) trong phòng, chống dịch Covid-19 để linh hoạt các phương án dạy và học
cho phù hợp. Hiện nay, tại thành phố Phan Rang- Tháp Chàm, các trường THPT trên
địa bàn thí điểm cho học sinh khối lớp 12 trở lại trường học trực tiếp từ ngày
10/1/2022. Trong đợt thí điểm này, UBND thành phố hướng dẫn các trường tổ chức
dạy và học theo phương án chia đôi sĩ số học sinh/ lớp (50% học sinh học trực
tiếp, 50% học sinh học trực tuyến), đảm bảo không quá 24 học sinh/ phòng học.
Các khối lớp 10,11, các trường vẫn duy trì hình thức học trực tuyến cho đến khi
có hướng dẫn mới. Tại các huyện còn lại trên địa bàn tỉnh, các trường cũng linh
hoạt đón học sinh trở lại trường học tập trực tiếp, chủ yếu là các khối lớp
THCS và THPT. Để đảm bảo an toàn cho học sinh đến trường, mọi công tác phòng dịch
đều được chuẩn bị tốt như: lấy ý kiến của phụ huynh, công tác tiêm phòng, khử
khuẩn vệ sinh lớp học, thực hiện nghiêm túc 5K, xây dựng các phương án học tập
phù hợp,…
d/ Chăm sóc sức khỏe cộng đồng
Dịch bệnh COVID-19 có cơ bản được kiểm soát, ca bệnh có xu hướng giảm
so với tháng trước. Trong tháng (từ ngày
21/12/2021 đến 20/01/2022) có 1.380
người mắc, giảm 26,8% (giảm 505 người) so với tháng trước; số người được điều trị khỏi xuất viện 1.849 người, giảm 16,9%. Tính chung trong đợt dịch thứ 4
(từ ngày 27/4/2021 đến nay), phát hiện
6.584 người mắc bệnh; có 6.409 người được điều trị khỏi xuất viện; 57 người tử
vong.
Tính đến ngày 20/01/2022, toàn tỉnh đã tiêm 1.083.045 mũi vắc
xin; trong đó số người đã tiêm mũi 1 là 445.769 người;
số người đã tiêm mũi 2 là 415.021 người; số
người đã tiêm mũi 3 là 136.117 người. Số người
từ 50 tuổi trở lên đã tiêm mũi 1 là 141.338 người; 130.841 người tiêm mũi 2 và
40.029 người tiêm mũi 3. Số người từ 65 tuổi trở lên đã tiêm mũi 1 là 42.256
người; 38.944 người tiêm mũi 2 và 5.044 người tiêm mũi 3. Số người từ 12-17 tuổi
trở lên đã tiêm mũi 1 là 58.124 người và 49.013 người tiêm mũi 2.
đ/ Văn hóa, thể
thao
Trong tháng Một,
hoạt động quản lý Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch của tỉnh có
nhiều chuyển biến tích cực, nhất là công tác chuẩn bị mở cửa trở lại cho hoạt động
du lịch và công tác tuyên truyền, trang trí, tổ chức các hoạt động mừng Đảng –
mừng Xuân Nhâm Dần năm 2022 được triển khai kịp thời, đúng tiến độ. Tuy nhiên,
do tình hình dịch COVID-19 vẫn đang diễn biến phức tạp nên một số hoạt động
như: biểu diễn nghệ thuật, thư viện lưu động, chiếu phim phục vụ thiếu nhi, miền
núi, nông thôn gặp nhiều khó khăn.
Thành lập Ban tổ chức và Điều lệ Giải Bóng rổ
mừng Đảng - mừng Xuân tỉnh Ninh Thuận năm 2022; điều chỉnh thời gian tổ chức
Đại hội Thể dục thể thao các cấp tỉnh Ninh Thuận lần thứ VII năm 2021 - 2022.
e/ Tai nạn giao
thông
Trong
tháng (từ ngày 15/12/2021 đến ngày
14 tháng 01 năm 2022), xảy
ra 16 vụ tai nạn giao thông (toàn bộ thuộc đường bộ), bao gồm 06 vụ tai nạn
giao thông từ nghiêm trọng trở lên và 10 vụ va chạm giao thông, làm 07 người chết,
17 người bị thương. So với tháng trước,
số vụ tai nạn giao thông tăng 05 vụ (+45,4%); số người chết tăng 06 người
(+600%) và số người bị thương tăng 05 người (+41,7%). So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tháng Một tăng
01 vụ (+6,7%); số người chết tăng 03 người (+75%) và số người bị thương tăng 02
người (+13,3%). Bình quân 2 ngày trong tháng xảy ra 1,06 vụ tai nạn giao thông.
g/ Tình hình cháy, nổ
Trong
tháng Một không xảy ra cháy, nổ trên địa bàn tỉnh, giảm 01 vụ so với tháng trước;
không tăng không giảm so cùng kỳ năm trước.
h/ Thiệt hại do thiên tai
Trong tháng 01/2022 (từ ngày 19/12/2021 đến ngày 18/01/2022), xảy ra 01 vụ thiên tai (ảnh
hưởng bão RAI từ ngày 17/12 đến ngày 20/12/2021) trên địa bàn huyện Thuận Bắc,
tỉnh Ninh Thuận; không tăng/giảm so với tháng trước; tăng 01 vụ so cùng kỳ năm
trước. Không thiệt hại về người, không tăng/giảm so với tháng trước và cùng kỳ
năm trước; ước tổng giá trị thiệt hại tài sản khoảng 65 triệu đồng, giảm 47.407
triệu so với tháng trước./.
Đính
kèm file: “Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội tháng 01 năm 2022
infographic Kinh tế - xã hội tháng 01 năm 2022
Nguyễn
Hồng Thiện
Phòng thống kê Tổng hợp