Năm 2019 là năm thứ tư thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
XIII và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2016 - 2020. Do đó
mục tiêu chung của tỉnh ta đề ra trong năm 2019 đó là: Tiếp tục thực hiện mục
tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững; huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực,
đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm cơ cấu lại nền nông nghiệp, công
nghiệp và đầu tư. Tập trung cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao
sức cạnh tranh của nền kinh tế; tạo chuyển biến mạnh mẽ, hiệu quả hơn trên các
lĩnh vực trọng điểm về phát triển năng lượng tái tạo, kinh tế biển, du lịch,
nông nghiệp công nghệ cao; phát huy tiềm lực khoa học - công nghệ, tận dụng có
hiệu quả cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, gắn với phương châm hành động năm
2019 “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả”
Để tiếp tục duy trì tăng trưởng, ổn định sản xuất, ngay từ đầu năm UBND
Tỉnh đã kịp thời ban hành Kế hoạch và chỉ đạo các cấp, các ngành tập trung
triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực
hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách năm 2019. Trên cơ sở đó, các ngành, các địa phương đã triển khai
thực hiện trong quý I/2019; Qua số liệu thống kê chính thức kinh tế-xã hội 2
tháng và dự ước tháng 3. Tình hình kinh
tế-xã hội quí I năm 2019 trên địa bàn tỉnh đạt được những kết quả cụ thể
như sau:
I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
a.
Nông nghiệp
Kết thúc gieo trồng vụ
đông xuân 2019, tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm đạt 30.075,5 ha, vượt
3,7% kế hoạch, tăng 4,6% so đông xuân 2018. Trong đó: Diện tích lúa 17.050,5
ha, vượt 3,4% so kế hoạch, tăng 0,4% so đông xuân trước; Nhóm cây ngô và cây
lương thực có hạt khác 2.712,5 ha, giảm 9,6% so kế hoạch và giảm 6,5% so cùng
kỳ, trong đó diện tích ngô 2.685,4 ha, giảm 9% và giảm 6,3% so cùng kỳ; cây lấy
củ 4.572,9 ha, tăng 53,2% so cùng kỳ; mía trồng mới 23,5 ha, tăng 11,9% so cùng
kỳ. Diện tích thuốc lá các năm gần đầy liên tục giảm, vụ đông xuân năm nay chỉ
thực hiện 45 ha, giảm 10% so cùng kỳ. Cây có hạt chứa dầu 291 ha, giảm 22,8% so
kế hoạch, tăng 2,5% so cùng kỳ; nhóm rau đậu 3.925 ha, giảm 5,3%, đạt 83,7% kế
hoạch; trong đó, rau các loại 3.114,5 ha, giảm 5,1% so cùng kỳ; đậu các loại
789,8 ha, giảm 4,6% so cùng kỳ. Diện tích cây gia vị hằng năm đạt 290,7 ha,
giảm 8% so cùng kỳ; cây hàng năm khác đạt 1.147,7 ha, tăng 8,9% so cùng kỳ,
vượt 6,4% kế hoạch, trong đó chủ yếu là cỏ trồng 1.119,7 ha, tăng 6,7% so cùng
kỳ .
Cây lúa, có 5/7 huyện
gieo cấy vượt so kế hoạch là: Bác Ái 624,5/ 600 ha, vượt 4%, Ninh Sơn 3.474,5/
3.150 ha, vượt 10%; Ninh Hải 2.186 ha/ 2.100 ha, vượt 4%; Ninh Phước 5.348/
5.240 ha và Thuận Bắc 2.753/ 2.700 ha, cùng vượt kế hoạch 2%. Diện tích lúa
tăng thêm do lượng nước đầy đủ nên một số diện tích trồng màu vụ trước nay
chuyển lại trồng lúa như ở huyện Ninh Hải. Có 2/7 huyện, thành phố diện tích
lúa giảm nhẹ so kế hoạch: TP.Phan Rang-TC thực hiện 971/ 1.100 ha, giảm 3%;
huyện Thuận Nam 1.693/ 1.700 ha, giảm 1%
- Công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng vụ Đông Xuân 2019: Diện tích thực hiện chuyển đổi trên đất lúa 112,3 ha, diện tích trên
cây hàng năm khác là 84 ha.
- Mô hình cánh đồng lớn vụ Đông Xuân 2019: Thực hiện sản xuất cánh đồng lớn lúa với 2.481 ha. Cụ thể:
Huyện Ninh Phước 1.624
ha lúa, tại 7 xã, thị trấn (xã Phước Hữu 200ha; Phước Thái 222ha; Phước Hậu
617ha; Phước Thuận: 340ha; Phước Hải 45ha; Phước Sơn: 100ha; thị trấn Phước
Dân: 100ha ); huyện Thuận Nam 295 ha ở 3 xã (Phước Nam; Phước Ninh; Phước Hà);
Huyện Ninh Hải 262 ha ở xã Xuân Hải; huyện Ninh Sơn 69 ha ở xã Lương Sơn; huyện
Thuận Bắc 231 ha ở 3 xã (Công Hải 70ha; Lợi Hải 59ha; Bắc Phong 102ha).
+ Cánh đồng lớn sản xuất
măng tây xanh quy mô 30 ha, ở 2 xã An Hải và Phước Hải.
+ Cánh đồng lớn ngô với
quy mô 80 ha ở xã Phước Vinh, huyện Ninh Phước.
Quy trình sản xuất cánh
đồng lớn được áp dụng đồng bộ các khâu: xuống giống, chăm sóc, bón phân, phun
thuốc đồng loạt để tạo hiệu quả rõ rệt cùng với việc thực hiện ký kết hợp đồng
tiêu thụ tạo sự an tâm cho nông dân.
Do ảnh hưởng không khí
lạnh và gió nên một phần diện tích lúa chậm phát triển, một số diện tích luá bị
bọ trĩ, vàng lá sinh lý, sâu cuốn lá xuất hiện vài nơi nhưng mật độ không cao,
sâu bệnh hại không đáng kể. Hiện nay đa phần cây sinh trưởng tốt, chăm sóc bón
phân và tưới nước đầy đủ.
- Năng suất, sản lượng cây trồng chủ yếu: Dự ước năng suất lúa đông xuân 2019 đạt 64,6tạ/ha, tăng 0,1tạ/ ha so
cùng kỳ, ước sản lượng lúa gần 110,2 nghìn tấn, tăng 0,6%; năng suất ngô ước
đạt 59,8 tạ/ha, giảm 0,4tạ/ ha, sản lượng ngô đạt hơn 16 nghìn tấn, giảm 7% do
diện tích giảm 181ha. Năng suất rau các loại ước đạt 169tạ/ha, giảm 7,6 tạ/ha
so cùng kỳ; sản lượng rau các loại ước đạt 52,7 nghìn tấn, giảm 9,2% so cùng kỳ
do diện tích giảm 1.031ha; sản lượng đậu các loại ước đạt 827,7 tấn, tăng 0,2%
so cùng kỳ; năng suất cỏ trồng 633,7 tạ/ha, tăng 0,1% so cùng kỳ.
Ước
tổng diện tích cây lâu năm toàn tỉnh hiện có đạt 11.860 ha, tăng 0,7% so cùng
kỳ, trong đó: Cây nho hiện có 1.265 ha, tăng
2,1% so cùng kỳ, trồng mới 22ha, gấp đôi so cùng kỳ, thời tiết và nguồn
nước đang thuận lợi, giá nho ổn định nên diện tích trồng mới tăng trở lại. Diện
tích cho sản phẩm đạt 1.151ha, tăng 2,4% so cùng kỳ. Cây xoài hiện có 422 ha,
tăng 2,4% so cùng kỳ; chuối 1.368 ha,
tăng 1,2% so cùng kỳ, được trồng nhiều dọc triền núi Bác Ái, Ninh Sơn, Thuận
Bắc; Cây táo hiện có 1.017 ha, tăng 0,9% so cùng kỳ, trong kỳ diện tích táo phá
gốc do già cỗi ít hơn (do được phá gốc nhiều ở năm trước). Diện tích táo trồng
mới vài năm gần đây vào cho sản phẩm nhiều, nâng diện tích táo đang cho sản
phẩm lên 982 ha, chiếm 96% diện tích hiện có. Diện tích điều có 4.529 ha, tăng
6,1%, diện tích cho sản phẩm 3.073ha, tăng 5,2% so cùng kỳ. Cây điều được trồng
nhiều ở các vùng núi bởi đặc tính dễ thích nghi kể cả vùng khô hạn, sỏi đá...
được hộ dân và các Ban quản lý rừng trồng theo dự án với hình thức trồng thả,
ít được chăm sóc, được trồng bổ sung hàng năm theo các chương trình trồng rừng
ở những tháng cuối năm khi vào mùa mưa.
Trong
các cây lâu năm của tỉnh, cây nho vẫn là cây chính đem lại hiệu quả kinh tế cao
giá cả ổn định. Các ngành chức năng đã tập trung tuyên truyền, hướng dẫn trồng
mới thêm các giống nho mới, nhưng do nhiều điều kiện như chi phí phân bón,
thuốc trừ sâu bệnh cao, các giống nho lai tạo mới chưa có điều kiện thử nghiệm
nhiều, giống nho xanh NH01-48 diện tích chưa mở rộng nhiều diện tích nho phát
triển còn hạn chế.
Nhìn chung, trong quý I năm nay, diện tích các cây
lâu năm đang cho sản phẩm giảm nhiều, năng suất còn thấp. Một số cây lâu năm
cho thu hoạch trong quý như: Nho, xoài, chuối, đu đủ, ổi, vú sữa... Một số cây
sản lượng thu trong quý giảm do diện tích thu hoạch giảm như sản lượng xoài thu
trong Quí 1 bằng 64% so cùng kỳ; chuối giảm 5,2%, đu đủ giảm 17,2%, ổi giảm
0,5%; vú sữa giảm 43,2%.... Bên cạnh đó, vẫn có các cây cho sản lượng cao hơn
Quí I năm trước do thời tiết thuận lợi
và diện tích cho thu hoạch tăng như sản lượng nho đạt 8.747 tấn tăng 3,7%,; táo
đạt 8.720 tấn, tăng 10,2%, bưởi tăng 9,3%,.... Các loại cây lâu năm khác
như sầu riêng, măng cụt, hồng,... chưa vào vụ thu hoạch.
Tình
hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh không có các dịch bệnh nguy hiểm xảy ra như
cúm gia cầm, lở mồm long móng,.. ,..
(tính đến ngày 14/3/2019 dịch tả lợn châu Phi đã xảy ra 17 tỉnh, không có ở
Ninh Thuận); công tác phòng chống dịch bệnh, kiểm dịch động vật qua tỉnh, kiểm soát giết mổ gia súc và tuyên truyền
phòng chống dịch cho gia súc, gia cầm luôn được chú trọng quan tâm. Tính đến ngày
8/3/2019, toàn tỉnh có xuất hiện một số loại bệnh như Tụ huyết trùng như trâu
bò 49 con; heo 16 con và chết 6 con; E.coli heo 59 con và chết 6 con; bệnh
Gumboro gà 473 con và chết 169 con; LMLM heo 46 con và chết 1 con; Phó thương
hàn heo 39 con và chết 4 con…Đã tổ chức tiêm phòng bổ sung các loại vắc xin: Tụ
huyết trùng trâu, bò: 12.733 con; Tụ huyết trùng, dịch tả, phó thương hàn,
LMLM, tai xanh heo tương ứng: 8.185con,16.230 con, 5.245 con, 27.212 con, 4.200
con; Tụ huyết trùng dê, cừu: 16.793 con; cúm gia cầm: gà 60.500, vịt 42.800
con; Newcate gà: 62.700 con; dịch tả vịt: 107.900 con.
Thuận lợi về thời tiết và kiểm soát tốt dịch bệnh,
tổng đàn vật nuôi kỳ này đều cao hơn cùng kỳ năm trước (ngoại trừ đàn heo): Đàn
trâu hiện có 3.891 con, tăng 0,7% so cùng kỳ. Đàn bò 120,4 nghìn con, tăng 5,7%
so cùng kỳ do ổn định đàn, giá hơi tăng khá, quy mô nuôi hộ gia đình phát triển
trở lại, lượng thịt hơi tiêu thụ tăng nhiều trong tháng 3 do ảnh hưởng dịch lợn
châu Phi. Đàn heo hiện có 88,9 nghìn con, giảm 4,3% so cùng kỳ. Đàn dê, cừu
hiện có 308,2 nghìn con, tăng 3,4% so cùng kỳ (đàn dê 147,8 nghìn con, tăng
4,7%; đàn cừu đạt 160,5 nghìn con, tăng 2,1%). Tổng đàn gia cầm hiện có 1.655,7
nghìn con, tăng 4,4% so cùng kỳ (chủ yếu tăng ở đàn vịt), trong đó: đàn gà 983,4 nghìn con, tăng 1,1%.
b. Lâm
nghiệp
Tình hình lâm nghiệp quý I/2019 chủ
yếu tập trung vào công tác chăm sóc rừng trồng cây lâm nghiệp 394 ha (năm 2
là 276,5 ha, năm 3 trở lên 117,5 ha) bằng 20,2% so cùng kỳ. Kế hoạch trồng rừng
và khai thác lâm sản khu vực nhà nước chưa có. Khai thác gỗ trong quý
I/2019 toàn bộ thuộc hộ cá thể ước đạt 160m3 giảm 4,8% so cùng kỳ;
củi khai thác đạt 2.555 ster, tăng 0,8% so cùng kỳ, chủ yếu thu nhặt và khai
thác từ cây chết rừng tự nhiên. Trong quí I phát hiện bắt giữ 91 vụ vi phạm,
giảm 18 vụ (giảm 16,5%) so cùng kỳ; trong
đó: phá rừng trái phép 18 vụ, tăng 9 vụ, mua bán và vận chuyển lâm sản
trái phép 25 vụ, giảm 21 vụ; tịch thu 16 xe máy,
18,83m3 gỗ các loại gồm 12,48m3
gỗ tròn và 6,35m3 gỗ xẻ các loại với tổng số tiền phạt hơn 104 triệu
đồng.
Hoạt động “Tết trồng
cây” đã trồng và chăm sóc trên 3.000 cây xanh vào cuối tháng 2 (gồm xà cừ,
bàng, me tây, móng bò, tùng, keo, sao, dầu...) trong khuôn viên UBND các cấp,
dọc các tuyến đường, cơ quan, bệnh viện, trường học, khu dân cư... góp phần phủ
xanh đất trống, đồi núi trọc, bảo vệ môi trường sinh thái, tạo cảnh quan tại
khu dân cư, xây dựng tỉnh Ninh Thuận ngày càng xanh-sạch-đẹp.
c. Thủy sản
Tổng sản lượng thủy sản
quý I/2019 ước đạt 26,33 nghìn tấn, tăng 9,9% so quý I/2018. Trong đó: Sản
lượng khai thác 25,37 nghìn tấn, tăng 10,3%;. Trong quí I thời tiết tốt, ngư
trường nhiều cá nổi, cá cơm, cá nục xuất hiện nhiều đợt, các tàu thuyền nghề
pha xúc, lưới vây vẫn là chủ lực, hải sản đánh bắt số lượng lớn vẫn là cá cơm,
cá nục.
Sản lượng nuôi trồng đạt
965 tấn, tăng 2,3%, trong đó cá các loại 65 tấn, tăng 6,2%; tôm các loại 658
tấn, tăng 4,3%; thủy sản khác 242 tấn, giảm 3,5%. Nuôi tôm
thẻ thương phẩm trong 3 tháng đầu năm khá ổn định, tôm nuôi sinh trưởng và
phát triển tốt, Diện tích tôm nuôi thẻ
ước quý I/2019 đạt 110 ha, tăng 5% so cùng kỳ, diện tích thu hoạch khoảng 54,7
ha đạt 650 tấn, tăng 4% so với cùng kỳ
Sản xuất giống thủy sản
9.438 triệu con, tăng 10,5% so cùng kỳ; trong đó tôm sú giống 2.320 triệu con,
tăng 0,9%; tôm thẻ giống 7.078 triệu con, tăng 14%; ốc hương giống 40 triệu
con, bằng cùng kỳ. Hoạt động sản xuất và
kinh doanh tôm giống trong quý I năm nay khá thuận lợi, sản lượng tôm giống
tăng cao so cùng kỳ. Nguyên nhân là tình hình thời tiết thuận lợi, quá trình
ương nuôi ấu trùng đạt hiệu quả, kết hợp nhu cầu tôm giống tăng nhẹ (nhất là
giai đoạn trước đến sau Tết).
3. Sản xuất Công nghiệp
Chỉ số sản xuất công
nghiệp trên địa bàn tỉnh trong quý 1/2019 ước tăng 2,7% so cùng kỳ 2018 (chỉ số
quý cùng kỳ năm trước tăng 15,6%). Một số sản phẩm chủ yếu như: muối biển, tôm
đông lạnh, tinh bột mỳ, đường rs, bia đóng lon, ... có giá trị tăng thêm chiếm
tỷ trọng cao nhưng chỉ số sản xuất đều giảm hơn so với cùng kỳ, các sản phẩm
chủ yếu này không đạt kỳ vọng đã tác động chỉ số sản xuất chung toàn ngành tăng
trưởng đạt thấp so với cùng kỳ 2018.
Công nghiệp khai khoáng : chiếm tỷ trọng
15,62% (cơ cấu chỉ số sản xuất toàn ngành), tập trung vào hoạt động khai thác
đá xây dựng và hoạt động khai thác muối biển. Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp
khai khoáng ước tăng 2,56% so cùng kỳ; trong đó, chủ yếu do khai thác đá xây
dựng tăng 40,2% so cùng kỳ tác động tăng chỉ số sản xuất của ngành, khai thác
muối biển chỉ đạt 87,3% cùng kỳ do diện tích khai thác giảm (hậu quả mưa lũ
cuối năm 2018 gây sạt lở) đồng thời sản phẩm tiêu thụ chậm, tồn kho còn nhiều.
Công nghiệp chế biến, chế tạo: chiếm tỷ trọng 61,86% (cơ cấu chỉ số sản xuất toàn
ngành), chỉ số sản xuất ước quý 1 giảm 0,8% so cùng kỳ. Trong đó: Sản xuất chế
biến thực phẩm, dự ước tăng 1,17% , bao gồm các ngành: chế biến thủy sản (tôm đông
lạnh) giảm 3,4%; chế biến nhân điều tăng 27,6%; sản xuất tinh bột mì giảm 8,5%;
sản xuất đường (rs) giảm 48%; chế biến thực phẩm khác (muối chế biến) giảm
1,2%. Sản xuất đồ uống (chủ yếu bia đóng lon các loại), tăng 1,45% so cùng kỳ.
Sản xuất vật liệu xây dựng ước giảm 4,2% so cùng kỳ, trong đó: sản xuất xi măng
giảm 2%; sản xuất gạch đất nung tăng 18%; sản xuất gạch không nung giảm 52,7%.
Ngành dệt (SX khăn bông) ước tính giảm 14,4% . Ngành sản xuất trang phục giảm
17,7% so cùng kỳ..
Công nghiệp sản xuất và phân phối điện... : chiếm tỷ trọng 16,16% (cơ cấu chỉ số sản xuất toàn
ngành), chỉ số sản xuất dự tính quý 1 tăng 10,35%. Trong đó, sản xuất điện tăng
12,56% và phân phối điện tăng 8,2% so cùng kỳ. Trong đó, sản phẩm mới điện gió
ước đạt 65 triệu kwh, chiếm 16% sản lượng sản xuất quý 1/2019.
Cung cấp nước, quản lý và xử lý rác ...: chỉ chiếm tỷ trọng 6,37% (cơ cấu chỉ số sản xuất
toàn ngành), chỉ số sản xuất dự tính tăng 15,1% so cùng kỳ; trong đó hoạt động
khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 15% cùng kỳ; xử lý thu gom rác thải tăng
15,3% so cùng kỳ.
Một số sản phẩm chủ yếu so với cùng kỳ
+ Khai thác muối các
loại: những tháng đầu năm 2019 tình hình thời tiết thuận lợi, tuy nhiên do hậu quả mưa lũ cuối
năm 2018 gây sạt lở đồng muối, sản lượng tháng 1 chỉ đạt 14% cùng kỳ vì phải tập
trung sửa chữa hạ tầng, sản lượng tháng 2 được nâng lên nhưng mới đạt 50% cùng
kỳ, dự kiến sản lượng tháng 3 tăng hơn 15%. Bên cạnh đó lượng tiêu thụ chậm,
muối tồn kho còn nhiều (tồn kho đến đầu tháng 3 hơn 85 ngàn tấn), giá tiêu thụ
bình quân 1.000 đ/kg , vì vậy sản lượng muối khai thác 3 tháng đầu năm ước
chỉ đạt 66,7 ngàn tấn, giảm 12,7% so cùng kỳ (làm giảm 0,92 điểm % chỉ số
chung).
+ Tôm đông lạnh: là
sản phẩm chiếm tỷ trọng cao (7,74%) trong tổng giá trị toàn ngành, có tác động
nhiều đến tốc độ tăng trưởng chung, do sản lượng tiêu thụ đạt thấp và nguyên
liệu không đáp ứng đủ nên 3 tháng đầu năm sản xuất ước đạt 1.434,1 tấn, giảm
3,4% so cùng kỳ (làm giảm 0,26 điểm % chỉ số chung).
+ Bia các loại: dự kiến sản xuất trong 3 tháng đầu năm
đạt 17,2 triệu lít, tăng 1,6% so cùng kỳ; đây là sản phẩm có giá trị gia tăng
đóng góp nhiều trong cơ cấu ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và toàn ngành
công nghiệp (chiếm 11,6% tỷ trọng giá trị tăng thêm toàn ngành), sản lượng đóng
góp tăng 0,18 điểm% chỉ số sản xuất chung toàn ngành.
+ Hạt điều khô: vẫn
còn gặp khó khăn trong việc tìm vốn phục vụ dự trữ nguyên liệu và thị trường
tiêu thụ, dự kiến trong quý 1/2019 sản xuất 862,3 tấn, tăng 27,6% so cùng kỳ
(tác động tăng 1,57 điểm % chỉ số chung).
+ Sản xuất đường ước
đạt 6.259 tấn, giảm 48% so cùng kỳ, do ảnh hưởng mưa lũ cuối năm 2018, sản
lượng mía nguyên liệu không đáp ứng đủ theo yêu cầu sản xuất của doanh nghiệp
(làm giảm 0,94 điểm % chỉ số chung).
+ Sản xuất tinh bột
mỳ: dự kiến trong quý I sản xuất 6.207 tấn, giảm 8,5% so cùng kỳ. Sản lượng
nguyên liệu không đủ theo nhu cầu sản xuất do ảnh hưởng mưa lũ cuối năm 2018,
giá tiêu thụ bình quân sản phẩm tăng 10% so cùng kỳ.
+ Điện sản xuất ước
đạt 405,4 triệu kwh, so cùng kỳ điện sản xuất tăng 12,6% (tác động tăng 1,46
điểm % chỉ số chung). Trong đó sản lượng điện gió, điện mặt trời đóng góp ước
đạt 65 triệu kwh, chiếm 16% sản lượng chung, thấp hơn 100 triệu kwh so với kế
hoạch sản xuất do tiến độ của các dự án năng lượng tái tạo thực hiện còn chậm.
Nhìn chung, tình hình
hoạt động sản xuất công nghiệp trong quý đạt mức tăng trưởng thấp so cùng kỳ năm
trước, chưa đạt kế hoạch đề ra; trong đó ngành ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo tăng trưởng giảm (-0,8%) do năng lực mới tăng thêm hầu như không có; riêng
ngành sản xuất, phân phối điện mặc dù tăng (+11,35%) nhưng chưa đạt dự kiến đề
ra.
4. Xây
dựng, đầu tư phát triển
Vốn đầu tư phát triển
ước thực hiện quý I năm 2019 đạt 7.640,4 tỷ đồng, tăng 3,4 lần
so với cùng kỳ năm trước; trong đó: Vốn đầu tư nhà nước đạt 695,4 tỷ đồng, tăng 5% và chiếm 9 % trong tổng số
vốn; Vốn đầu tư của dân cư và tư nhân đạt 5.495 tỷ đồng, tăng 5,2 lần
so cùng kỳ và chiếm 72%; vốn đầu tư nước ngoài đạt 1.450 tỷ đồng chiếm 19% , tăng 6,2 lần so với cùng kỳ năm trước.
Nguyên nhân nguồn vốn đầu tư trong quý 1 năm 2019 tăng cao so với cùng kỳ
chủ yếu là do nguồn vốn các doanh nghiệp FDI và tư nhân hoạt động thuộc lĩnh
vực điện gió và điện mặt trời đầu tư vào tỉnh tăng mạnh so với cùng kỳ (do tỉnh
có chủ trương ưu đãi kêu gọi các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực năng lượng xanh và
sạch).
5. Thương mại, giá cả và dịch vụ
Ước tính tổng mức
bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ quý I/2019 đạt 5.434,1 tỷ đồng, tăng
13,21% so với cùng kỳ năm 2018. Trong
tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ quý I năm 2019 so với cùng kỳ năm
trước thì, khu vực kinh tế Nhà nước đạt 287,6 tỷ đồng, tăng 12,44%; kinh
tế Tập thể đạt 5,9 tỷ đồng, tăng 10,59%; kinh tế tư nhân đạt 1.941,4 tỷ
đồng, tăng 12,29%; kinh tế cá thể đạt 3.145,6 tỷ đồng, tăng 13,78%; kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài đạt 53,6 tỷ đồng, tăng 17,82%. Xét theo ngành kinh tế
thì thương nghiệp đạt 4.202,7 tỷ đồng, chiếm 77,34% và tăng 13,06% so với cùng
kỳ 2018, khách sạn-nhà hàng và du lịch lữ hành đạt 754,5 tỷ đồng, chiếm 13,88%
và tăng 13,13% so với cùng kỳ 2018, dịch vụ đạt 476,9 tỷ đồng, chiếm 8,78% và tăng
14,63% so với cùng kỳ 2018.
a.
Bán lẻ hàng hóa
Ước tính tổng mức bán
lẻ hàng hóa tháng 03 năm 2019 đạt 1.394,9 tỷ đồng, tăng 13,6% so tháng cùng kỳ,
nâng tổng mức bán lẻ hàng hóa quý I năm 2019 đạt 4.202,76 tỷ đồng, tăng 13,06%
so với cùng kỳ năm trước: Kinh tế Nhà nước đạt 215,33 tỷ đồng, tăng 112%
so cùng kỳ; Kinh tế ngoài Nhà nước đạt 3.987,43 tỷ đồng, tăng 13,1% so cùng kỳ.
Trong tổng mức bán lẻ thì nhóm ngành Lương thực, thực phẩm đạt 1.805,82 tỷ
đồng, chiếm 42,97% và tăng 12,87% so cùng kỳ năm trước; nhóm ngành xăng, dầu
các loại đạt 569,4 tỷ đồng, chiếm 13,55% và tăng 16,53%; nhóm ngành gỗ và vật
liệu xây dựng đạt 401,15 tỷ đồng chiếm 9,55%, tăng 12,22%
b.
Dịch vụ lưu trú, ăn uốngvà du lịch lữ hành
Doanh thu lưu trú, ăn uống và dịch vụ lữ hành tháng 3/2019 ước đạt 244,28
tỷ đồng, tăng 15,8% so tháng cùng kỳ. Nâng tổng số quí I năm 2019 đạt 753,1 tỷ
đồng, tăng 13,1% so cùng kỳ. Trong đó: Kinh tế ngoài Nhà nước đạt 712,2 tỷ
đồng, chiếm tỷ trọng 94,4% và tăng 12,9% so cùng kỳ; Kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài đạt 42,3 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 5,6% và tăng 17,4%.
Nhìn
chung hoạt động thương mại, dịch vụ trên địa bàn tỉnh trong quý I/2019 phát
triển tương đối mạnh, trong đó khu vực du lịch, dịch vụ phát triển khá, nhu cầu
vui chơi, tham quan, giải trí, mua sắm và dịch vụ tiêu dùng của nhân dân và
khách du lịch tăng lên trong những ngày có tết dương lịch, tết Nguyên Đán, ngày
Quốc tế Phụ nữ 8/3. Nguồn cung hàng hóa dồi dào, do đó tình hình
giá cả tương đối ổn định, hàng hoá được lưu thông thông suốt, mặc dù một số mặt hàng rau
củ, trái cây, bia, thủy hải sản… tăng trong dịp Tết Nguyên đán, song mức tăng
tương đương với cùng Tết năm trước, không có sự tăng giá đột biến làm ảnh hưởng đến tâm lý của
người dân, không có hiện tượng đầu cơ, găm hàng gây bất ổn thị trường.
Hoạt
động du lịch trên địa bàn tỉnh trong quý I/2019 khá sôi động và có sự đổi mới so với các
năm, nhiều
cơ sở lưu trú du lịch tăng cường đầu tư, chất lượng dịch vụ và các chương trình
ngày càng mang tính chuyên nghiệp, đẳng cấp; năm nay khách du lịch từ các tỉnh
phía Bắc đổ về Ninh Thuận khá đông; các điểm du lịch trong tỉnh đều thu hút
đông du khách, đặc biệt công suất phòng của một số cơ sở kinh doanh du lịch
những ngày Tết Nguyên đán đạt 100% , và sở thích là khám phá các điểm mới của
Ninh Thuận, như tham quan Vườn rau Oganic của Vĩnh Hy, trải nghiệm Mũi Dinh,
đồi cát Nam Cương và khám phá Vườn quốc gia Phước Bình, phim trường Du Long...
c.
Vận tải hành khách và hàng hóa
Doanh thu vận tải ước
đạt 314,9 tỷ đồng, tăng 21,9% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó doanh thu vận
tải hàng hóa đạt 194,3 tỷ đồng, tăng 18,2% và doanh thu vận tải hành khách đạt
101 tỷ đồng, tăng 19,9%.
Vận chuyển hành khách
đạt 1.848,1 ngàn lượt hành khách, tăng 18,9%; luân chuyển hành khách đạt 145,9
triệu hk.km, tăng 17,9% so với cùng kỳ năm 2018. Vận chuyển hàng hóa đạt
1.849,3 ngàn tấn hàng hóa, tăng 16,4%; luân chuyển hàng hóa đạt 141,7 triệu
tấn.km, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm 2018.
Tình hình hoạt động vận
tải quý 1 năm 2019 ổn định nhờ trước và sau dịp tết Nguyên đán, lượng hành
khách lưu thông tăng. Đặc biệt ngành vận tải hành khách liên tỉnh doanh thu vận
tải tăng cao hơn do dịp trước tết và sau tết Nguyên đán nên lượng khách lưu
thông tăng nhiều, đồng thời giá cước vận chuyển hành khách trước tết Nguyên đán
tăng từ 20% đến 60% đối với tuyến đường TP.HCM về Ninh Thuận, thời gian trong
và sau dịp tết Nguyên đán giá cước vận chuyển hành khách tăng từ 40 đến 60% đối với tuyến đường từ Ninh Thuận vào TP. HCM, bên cạnh đối với
hoạt động vận tải hàng hóa do lượng hàng hóa lưu thông phục vụ sản xuất kinh
doanh sau dịp tết Nguyên đán cũng tăng nên góp phần doanh thu vận tải quý 1 năm 2019 tăng cao so với cùng kỳ năm 2018.
d.
Bưu chính -Viễn thông
Toàn
tỉnh có 02 doanh nghiệp và 07 Văn phòng đại diện hoạt động bưu chính, chuyển
phát. Có 99 điểm phục vụ bưu chính tăng 28 điểm so với thời điểm cuối năm 2018
(trong đó: 31 bưu cục; 39 bưu điện văn hóa xã; 29 điểm phục vụ thuộc loại hình
khác). Bán kính phục vụ là 3,29 km/1 điểm giảm 0.61 km/1 điểm so với thời điểm
cuối năm 2018 và bình quân 6.060 người/1 điểm phục vụ giảm 2.510 người/1 điểm
phục vụ so với thời điểm cuối năm 2018. Trên địa bàn tỉnh hiện có 09 doanh nghiệp cung
cấp các dịch vụ viễn thông, internet và truyền hình cáp; Có 182 điểm chuyển
mạch tăng 109 điểm so với
thời điểm cuối năm 2018;
284 tuyến viba tăng 115 tuyến so với
thời điểm cuối năm 2018;
84 tuyến cáp đồng dài 2.303 km; 775 tuyến cáp quang tăng 205 tuyến với tổng chiều dài
6.691km tăng 872 km so với thời điểm cuối năm 2018, 1.455 trạm BTS (502 trạm 2G, 640 trạm 3G, 313
trạm 4G), 652 vị trí trạm BTS (216 vị trí cột ăngten sử dụng chung), 09 trạm
điều khiển thông tin di động BSC. Phát triển 1.370 thuê bao điện thoại (370 thuê
bao di động trả sau và 1.063 thuê bao di động trả trước). Tổng số thuê bao điện
thoại trên toàn tỉnh là 635.520 thuê bao (trong đó điện thoại cố định 21.277
thuê bao; di động trả sau 29.110 thuê bao và di động trả trước 585.133 thuê
bao), đạt mật độ 107 thuê bao/100 dân (trong đó mật độ điện thoại cố định và di
động trả sau đạt 8,46 thuê bao/100 dân). Phát triển 875 thuê bao internet băng
rộng (185 thuê bao internet cố định, 690 thuê bao internet di động); tổng số
thuê bao internet băng rộng trên toàn tỉnh là 275.485 thuê bao (trong đó
internet cố định băng rộng là 80.585 thuê bao, internet băng rộng di động là
194.900 thuê bao). Mật độ internet trên toàn tỉnh là 46,3 thuê bao/100 dân.
e.
Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Tổng kim ngạch xuất
khẩu quý 1 năm 2019 ước đạt
12,922 triệu USD, giảm 6,24% so cùng kỳ và đạt 12,92% kế hoạch. Các mặt hàng xuất khẩu gồm: Thủy sản
ước đạt 4,0 triệu USD, giảm 49,42% so cùng kỳ; nhân điều ước đạt 7,1 triệu USD,
tăng 32,47% so cùng kỳ; sản phẩm mây tre ước đạt 0,02 triệu USD, giảm 22% so
cùng kỳ; hàng dệt may ước đạt 1,8 triệu USD, tăng 270% so cùng kỳ. Thị trường
tiêu thụ chủ yếu là Mỹ, Hà Lan, Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc. Trong quý I/2019, xuất
khẩu có một vài tín hiệu khả quan, hàng dệt và may mặc (Khăn bông) bứt phá với
sự gia tăng về trị giá xuất tăng gần gấp 3 lần so 2018, khẳng định lợi thế từ
CPTPP; sản phẩm nha đam (Cánh Đồng Việt) đã xuất sang thị trường Trung Quốc và
Nhật Bản; nhân điều với sự tham gia của thêm 01 doanh nghiệp (Long Sơn LBL) góp
phần tăng kim ngạch so cùng kỳ 2018. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu chưa cao,
giảm so cùng kỳ 2018 (6,24%). Nguyên nhân là do mặt hàng tôm đông lạnh đã đẩy
mạnh hoạt động xuất những tháng cuối năm 2018 nên tạm giảm trong quý I/2019.
Tổng kim ngạch nhập
khẩu đạt 94,93 triệu USD, tăng hơn 2.700% so cùng kỳ 2018 từ mặt hàng tấm
pin quang điện, hệ thống khung, giá đỡ, các thiết bị, linh kiện đi kèm,.. của
các dự án điện mặt trời, điện gió.
II. KIỂM SOÁT LẠM PHÁT, ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ
1. Chỉ số giá
Chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) tháng 03 năm 2019 giảm 0,41% so với tháng trước (khu vực thành thị
giảm 0,57%, khu vực nông thôn giảm
0,24%); trong đó chỉ số nhóm hàng hóa giảm 0,42% (nhóm hàng lương thực-thực
phẩm giảm 1,44%, nhóm hàng phi lương thực-thực phẩm tăng 0,77%), chỉ số nhóm
dịch vụ giảm 0,41% so với tháng trước. So với bình quân cùng kỳ năm 2018, CPI
tăng 2,61%.
Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng
chính, 03 có nhóm chỉ số giá tăng với
mức tăng: nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,84%; giao
thông tăng 1,80%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,07%. 06 nhóm có chỉ số giảm
là hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 1,24%; đồ uống thuốc lá giảm 0,36%; may mặc,
mũ nón, giày dép giảm 0,43%; thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,01%; thuốc và
dịch vụ y tế giảm 0,05%; văn hóa, giả trí và du lịch giảm 2,18%. Chỉ số giá
nhóm bưu chính viễn thông, nhóm giáo dục tương đối ổn định.
Giá cả thị trường trên
địa bàn tỉnh trong tháng 03/2019 giảm ở
một số mặt hàng như thực phẩm, đồ uống, may mặc, giải trí và du lịch do sức mua
đầu năm vẫn còn yếu nên giá cả các mặt hàng rau củ giảm mạnh, nhu cầu mua sắm,
đi lại của người dân giảm Sau Tết Nguyên Đán Kỷ Hợi 2019, góp phần làm CPI
tháng này giảm so với tháng trước.
- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống: Chỉ số nhóm
này giảm 1,24%, trong đó:
+ Lương thực: tăng 0,32% do thị trường thiêu thụ
trong tháng khá thuận lợi, sức mua vào của doanh nghiệp khá mạnh, năng suất thu
hoạch vụ mùa năm nay giảm nên giá lúa, gạo tăng nhẹ so với tháng trước, cụ thể:
gạo tẻ thường giá từ 10.000 – 11.500 đồng/kg, gạo tẻ ngon giá 16.000-18.000
đồng/kg, gạo nếp ngon từ 24.000-26.000 đồng/kg; giá ngô còn nguyên bắp tăng
7,05% do nguồn cung ít.
+ Thực phẩm: giảm 2,12% so với tháng trước, nhóm
này giảm do:
* Giá heo hơi bắt đầu giảm trong tháng 3/2019 do
dịch tả châu phi lan sang các tỉnh phía bắc làm cho người dân lo ngại sử dụng mặt
hàng này đã đẩy giá heo thịt và nội tạng giảm 2,07%; kéo theo giá các mặt hàng
thịt chế biến giảm 5,11% so với tháng trước.
* Giá trứng các loại giảm mạnh, giảm 9,32% do
sau tết nhu cầu chế biến thực phẩm (bánh kẹo, các sản phẩm khác,…) giảm, cộng với
đàn gia cầm của các hộ dân tăng cao là yếu tố chính khiến giá trứng giảm mạnh .
* Ngư trường khai thác thuận lợi, sản lượng đánh
bắt đa dạng, phong phú nên giá nhiều mặt hàng thủy sản giảm, làm chỉ số giá
nhóm thủy sản tươi sống giảm 1,63%; thủy sản chế biến giảm 0,55%.
* Mặt hàng rau tươi khô và chế biến giảm 5,80%
do thời tiết nắng ấm sau Tết tạo điều kiện cho các loại rau phát triển nhanh, nguồn
cung rau, củ dồi dào trong khi đó sức mua giảm nên giá một số mặt hàng giảm, cụ
thể: giá su hào giảm 13,29%; giá cà chua giảm 32,77%; rau muống giảm 6,71%;…
* Mặt hàng quả tươi chế biến giảm 2,99% so với
tháng trước do nguồn cung dồi dào, sức mua không tăng nên một số mặt hàng trong
nhóm giá giảm so với tháng trước.
+ Ăn uống ngoài gia đình: giá các mặt hàng ăn uống
ngoài gia đình giảm 0,37% do sau tết một số mặt hàng trở lại giá ngày thường và
một số vẫn giữ giá tăng, trong đó: ăn ở quán bình dân giảm 1,16%; mặt hàng uống
ngoài gia đình tăng 4,75%.
- Nhóm đồ uống và thuốc lá: giảm 0,36% so với
tháng trước, nhóm này giảm chủ yếu giá bia lon các loại giảm do giá giảm so với
giá Tết.
- Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép: so với tháng
trước nhóm này giảm 0,43%; sau tết nhu cầu về các mặt hàng may mặc, mũ nón,
giày dép giảm, làm chỉ số giá nhóm này giảm so với tháng trước.
- Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu
xây dựng: tăng 0,84% so với tháng trước. Nhóm này tăng chủ yếu giá gas tăng
17.000 đồng/bình 12kg các loại từ ngày 01/03/2019, làm chỉ số giá gas tăng
5,13%; giá dầu hỏa tăng 4,59%; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,82% do giá
xi măng, giá sắt thép tăng; lượng nước sinh hoạt tiêu thụ tăng 1,02%; điện sinh
hoạt tăng 0,27%, góp phần làm chỉ số nhóm này tăng so với tháng trước.
- Nhóm giao thông: đây là nhóm có chỉ số tăng cao nhất trong 11 nhóm
hàng tiêu dùng chính. Nhóm này tăng 1,80% do giá nhiên liệu tăng 5,49%, cụ thể:
xăng A95, xăng Ron E5 tăng 960 đồng/lít; dầu Diezen tăng 980 đồng/lít; giá dịch
vụ sữa chữa xe đạp tăng 2,34% do ảnh hưởng tăng từ tháng trước. Tuy nhiên, giá
dịch vụ giao thông công cộng giảm 11,63% do giá vé ô tô khách giảm 13,86%, giá
vé tàu hỏa giảm 14,40%, cũng chưa làm chỉ số nhóm này tăng cao so với tháng trước.
Nhóm văn hóa giải trí và du lịch: giảm 2,18%,
nhóm này giảm chủ yếu giá hoa tươi giảm 8,92% do số lượng hoa sau tết nhiều và
sau ngày 14/2 (ngày lễ tình nhân) giá hoa giảm mạnh; sau tết giá nhà khách,
khách sạn trở lại giá cũ nên chỉ số giá nhóm này giảm 5,36% so với tháng trước.
2. Tài chính, ngân hàng
a. Tài chính
Tổng thu ngân sách trên
địa bàn tỉnh quý I năm 2019 ước đạt 1.272 tỷ đồng, đạt 47,1% kế hoạch, trong
đó: thu nội địa đạt 733 tỷ đồng, đạt 30,5% kế hoạch, tăng 6,8% so cùng kỳ; thu
thuế xuất nhập khẩu đạt 539 tỷ đồng, đạt 179,7% kế hoạch. Trong 15 khoản thu cân đối ngân sách, chỉ có 03 nguồn
thu thu thấp và giảm so cùng kỳ: thu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp đạt 550
triệu đồng, giảm 18,5%; thu tiền cho thuê đất đạt 6,4 tỷ đồng, giảm 18,3%; thu Xổ
số kiến thiết đạt 175,7 tỷ đồng, giảm 54,1%. Còn lại 12 khoản thu đều đạt và
vượt so cùng kỳ; Một số khoản thu tăng cao như: Thu từ khu vực DN có vốn ĐTNN
đạt 166,6 tỷ đồng tăng 108,5% so cùng kỳ; Thu tiền sử dụng đất đạt 46 tỷ đồng
tăng 133,6%; Thu từ DNNN địa phương 12,1 tỷ đồng tăng 28,4%; Thuế BVMT tăng
72,7%,...
Tổng chi ngân sách ước
đạt 1.400 tỷ đồng/ 5.352 tỷ đồng, đạt 26% kế hoạch. Nhìn chung, công tác chi ngân sách của tỉnh đảm
bảo kế hoạch đề ra và cơ bản đáp ứng việc điều hành thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế-xã hội địa phương.
b.
Ngân hàng
Theo báo cáo của Chi
nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh ước đến 31/03/2019, nguồn vốn huy động trên địa bàn ước đạt 13.800 tỷ đồng, tăng 2.259 tỷ đồng (+19,57%) so với cùng
kỳ; tăng 570 tỷ đồng (+4,31%) so với cuối năm 2018, bằng 26,9% kế hoạch năm 2019. Trong đó: Tiền gửi tiết kiệm từ dân cư: Ước
đạt 9.580 tỷ
đồng, chiếm 69,42%
trong tổng nguồn huy động, tăng 1.242 tỷ đồng (+14,90%) so với cùng
kỳ, tăng 507 tỷ đồng (+5,59%) so với cuối năm 2018; Tiền gửi thanh toán: Ước đạt 3.980 tỷ đồng, chiếm 28,84%, tăng 1.149 tỷ đồng (+40,59%) so với cùng
kỳ, tăng
48 tỷ đồng (+1,22%) so với cuối năm; Phát hành giấy tờ có giá: Ước đạt 240 tỷ đồng, chiếm 1,74%, giảm
132 tỷ đồng (-35,48%) so với cùng
kỳ, tăng 15 tỷ đồng (+6,67%) so với cuối năm.
Ước đến 31/3/2019, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn đạt 21.350 tỷ đồng, tăng 3.226 tỷ đồng (+17,80%) so với cùng
kỳ, tăng 556 tỷ đồng (+2,67%) so với cuối năm 2018, bằng 11,9% kế hoạch; trong
đó vay ngắn hạn: 9.898 tỷ
đồng, chiếm tỷ trọng 46,35% trong tổng dư nợ, tăng 1.248 tỷ đồng (+14,43%) so với cùng
kỳ, tăng 98 tỷ đồng (+1,00%) so với cuối năm 2018; vay trung, dài hạn: 11.455 tỷ đồng, chiếm 53,65%, tăng 1.978 tỷ đồng (+20,87%) so với cùng
kỳ, tăng 458 tỷ đồng (+4,16%) so với cuối năm 2018.
Ước đến 31/3/2019, dư nợ xấu trên địa bàn là 128 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 0,60% so với tổng dư nợ, giảm 0,54% so với tỉ lệ 1,14% cùng kỳ năm 2018 (số tuyệt đối tăng 3,3 tỷ
đồng) (bằng về số tuyệt đối tại thời điểm cuối năm 2018).
Hoạt động tiền tệ, ngân
hàng trên địa bàn trong tháng 03/2019 ổn định, an toàn và phát triển, đầu tư tín dụng tăng
trưởng khá, tập trung nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh và
các chương trình tín dụng trọng điểm gắn với kiểm soát chất lượng tín dụng, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng, góp phần vào sự ổn định và hỗ
trợ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
nhà.
Về chất lượng tín dụng,
nợ xấu tuy
trong tầm kiểm soát nhưng tiềm ẩn rủi ro
phát sinh cao và nợ nhóm 4, nhóm 5 chiếm tỷ trọng lớn (trên 80%), do hoạt động một số doanh nghiệp có dư nợ
lớn gặp khó khăn, chậm phục
hồi, thậm chí phá sản; công tác xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ chậm. Một số cơ chế, quy định của các Bộ, ngành Trung Ương hướng dẫn thực hiện Nghị Quyết 42 chưa kịp
thời; về phía các Sở, ngành địa phương chưa tích cực
phối hợp thực hiện theo sự phân công nhiệm vụ tại Quyết định 313/QĐ-UBND ngày 21/9/2017 phê duyệt Kế hoạch thực
hiện Đề án cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu
giai đoạn 2016-2020 trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.
III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. Đời sống, chính sách xã hội và việc làm
Trong quý I năm 2019
các ngành tập trung chăm lo tổ chức các hoạt động thăm hỏi
và tặng quà nhân dịp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi năm 2019 cho các đối tượng chính
sách Người có công với cách mạng; người nghèo; bảo trợ xã hội và trẻ em... trên
địa bàn tỉnh đảm bảo đủ định mức,
đúng đối tượng, không để xảy ra sai sót, khiếu nại, qua đó tạo niềm tin, phấn
khởi cho Nhân dân và dư luận đánh giá cao;
công tác cấp phát gạo được thực hiện kịp thời, công khai, đúng đối tượng. Thăm hỏi và tặng quà cho các gia đình chính sách,
Người có công với cách mạng cho Tổ chức thăm tặng quà tết Nguyên đán Kỷ Hợi năm 2019 cho các đối tượng người có công với cách mạng, các đơn
vị với tổng số: 20.700 định suất/5.584 triệu đồng; trong đó: Quà Chủ tịch nước: 6.620 định suất/1.270,8 triệu đồng; Quà tỉnh:10.007 định suất /3.122,9 triệu đồng; Quà huyện, xã: 704 định suất /159,5 triệu đồng; Quà của Đảng
ủy Khối Doanh nghiệp: 08 định suất/12 triệu đồng. Doanh nghiệp, Cá nhân: 3.361 định suất/1.030,788 triệu đồng. Cho các đối tượng bảo trợ xã hội và Hộ nghèo 33.355
người với kinh phí 6.671triệu đồng, Trong đó: Đối tượng tại cộng đồng: 18.606
người, với kinh phí: 3.721,2 triệu đồng. Đối tượng nuôi tại tập trung cơ sở bảo trợ xã hội: 283 người, với kinh phí: 56,6 triệu đồng.
Đối tượng Học viên tại Cơ sở cai nghiện Ma túy: 75 người, với kinh phí:
15 triệu đồng. Quà mức 200.000 đồng hỗ trợ Tết cho hộ nghèo: 14.391hộ/ 2.878,2 triệu đồng và Quà Chủ tịch nước thăm
26 Người Cao tuổi với kinh phí 32,5 triệu đồng. Tổ chức cấp phát hỗ trợ gạo cứu đói nhân dịp Tết
Nguyên đán Kỷ Hợi 2019 cho 13.247 hộ/53.152 khẩu với số gạo: 797.280 kg cho các
huyện. Vận động hỗ trợ
cho đồng bào dân tộc thiểu số xã Mỹ
Sơn dịp tết Nguyên đán Kỷ Hợi năm 2019 với 225
suất quà, trị giá mỗi suất 200.000đ với kinh phí 55 triệu đồng.
Theo báo cáo của Sở Lao
động-Thương binh và Xã hội tỉnh; trong quý I/2019, đã giải quyết việc làm mới 4.745 lao động/15.500 lao động đạt 30,61% kế
hoạch giao. Trong đó: (lao động trong tỉnh: 1.489 lao động;
lao động ngoài tỉnh: 3.200 lao động; xuất khẩu lao động: 56 lao động/150 lao
động đạt 37,3% kế hoạch giao). 4.369 người
được tư vấn việc làm, 266 người được giới thiệu việc làm, 121 người
được tuyển dụng.Tổ chức
tuyển mới đào tạo nghề cho 1.621/8.500 người đạt 19% so với kế hoạch, tăng
1,01% so với cùng kỳ năm 2018 (Trong đó dạy nghề sơ cấp và đào tạo nghề dưới 3
tháng 1.621 người; trình độ Trung cấp, Cao đẳng tháng 09/2019 mới tuyển sinh).
Phối hợp cùng Đoàn Resurge International (Hoa
Kỳ) tổ chức khám, sàn lọc và phẩu thuật cho 270 người khuyết tật sứt môi, hở
hàm ếch, sụp mi, sẹo bổng co rút,…. Kết quả có 147 bệnh nhân là trẻ em và có 81
bệnh nhân được phẩu thuật ( tăng 64
trường hợp là trẻ em).
2.
Giáo dục và đào tạo
Tổ chức sơ kết học kỳ I năm học 2018-2019 và xếp loại học lực Học sinh
cấp trung học cơ sở đạt trung bình trở lên 86,9%, tăng 10,5% và Trung học phổ
thông đạt trung bình trở lên 82%, tăng 1% so năm học trước.
Tình hình học sinh bỏ học của ba cấp học trong học kỳ I năm học 2018-2019
có 460 hs/112.330 hs có mặt đầu năm, chiếm tỷ lệ 0,41%, giảm 0,09% so với cùng
kỳ; trong đó: Cấp Tiểu học 35 hs/57.734 hs có mặt đầu năm, chiếm tỷ lệ 0,06 %,
giảm 0,02% so với cùng kỳ; Cấp THCS 222 hs/37.816 hs có mặt đầu năm, chiếm tỷ
lệ 0,59% so với cùng kỳ giảm 0,2%; Cấp THPT 203 hs/16.780 hs có mặt đầu năm,
chiếm tỷ lệ 1,2% so với cùng kỳ giảm 0,24%.
Tính đến tháng 03/2019, tổng số trường đạt chuẩn là 118 trường, trong đó:
trường phổ thông là 100/234 trường (Tiểu học 68 trường,THCS 29 trường, THPT 03
trường) đạt tỷ lệ 42,73%, tăng 5,43% so với cùng kỳ năm trước; trường mầm non
18/88 trường đạt tỷ lệ 20,5%, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước. Số trường Tiểu học triển khai học 2 buổi/ngày có
146/150 trường; số học sinh Tiểu học học 2 buổi/ngày có 33.723 hs/57.734 hs,
đạt tỷ lệ 58,41%, giảm 5,05% so với cùng kỳ năm trước
Tổ chức kiểm tra công nhận đạt chuẩn phổ cập, xóa mù chữ năm 2018 đối với
các huyện, thành phố; kết quả 7/7 huyện, thành phố được công nhận đạt chuẩn phổ
cập XMC năm 2018 và đề nghị Bộ GDĐT kiểm tra công nhận tỉnh Ninh Thuận đạt
chuẩn phổ cập GD,XMC năm 2018.
Tổ chức kỳ thi chọn đội tuyển học sinh giỏi THPT tham dự cấp quốc gia năm
2019 đảm bảo an toàn, đúng quy chế (gồm 51 học sinh dự thi, kết quả 02 giải Ba
và 06 giải Khuyến khích); kỳ thi Khoa học kỹ thuật học sinh THPT cấp tỉnh năm
học 2018-2019 (gồm 36 dự án, đề tài/10 lĩnh vực dự thi, trong đó: cấp THPT 31
dự án/49 học sinh dự thi, cấp THCS 05 dự án/05 học sinh dự thi. Kết quả: Cấp
THPT có 02 giải Nhì, 04 giải Ba, 12 giải Tư; cấp THCS có 03 giải Tư; trong đó
có 06 dự án được chọn tham dự thi cấp quốc gia tại TP Hồ Chí Minh); Tổ chức Hội
thảo Khoa học kỹ thuật cấp tỉnh dành cho học sinh trung học năm học 2018-2019;
phối hợp Báo Thanh niên, chỉ đạo các trường tham gia Chương trình tư vấn mùa thi cho học sinh lớp
12 toàn tỉnh.
3.
Hoạt động văn hóa
Tổ chức tốt tổ chức các hoạt động
văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, trưng bày triển lãm, tuyên truyền cổ động
đón chào Xuân mới 2109. Hướng dẫn công tác tuyên truyền, kỷ niệm các ngày lễ lớn
và sự kiện lịch sử quan trọng trong năm 2019; tuyên truyền và tổ chức các chuỗi hoạt động phong phú và đa dạng Kỷ niệm
89 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930-03/02/2019) và Mừng
Đảng - Mừng Xuân Kỷ Hợi 2019 phục vụ trên 55.000 lượt quần chúng nhân dân trong
tỉnh và du khách tham dự. Tổ chức nhiều hình thức tuyên truyền chào mừng Kỷ
niệm 74 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 29 năm Ngày hội Quốc
phòng toàn dân (22/12); kỷ niệm 89 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Viêt Nam
(03/02) và những thành tựu kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Thuận 2018 gắn với 60 năm
Ngày quân và dân ta nổi dậy phá khu tập trung Bà Râu (07/02/1959-07/02/2019) và
các nhiệm vụ chính trị, chương trình, sự kiện của tỉnh. tuyên truyền điển
hình tiêu biểu học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh; Luật Nghĩa vụ quân sự; Chỉ thị của Ban Thường
vụ Tỉnh ủy về lãnh đạo thực hiện thắng lợi Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2019; hướng dẫn các địa
phương tăng cường công tác quản lý lễ hội trong dịp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi 2019,
tránh lợi dụng lễ hội để tổ chức mê tín dị đoan, cờ bạc trá hình, bạo lực.
Tổ chức thành công giải Bóng rổ phong trào Mừng Đảng – Mừng
Xuân Kỷ Hợi năm 2019; phối hợp với Công an tỉnh tổ chức Giải Quần vợt truyền
thống. Tiến hành triển khai xây dựng Đề
án phát triển thể thao thành tích cao tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2019-2020 và
tầm nhìn đến năm 2030. Hướng dẫn tổ chức Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân
tỉnh Ninh Thuận năm 2019. Các đội quần vợt, điền kinh tăng cường tập luyện
chuyên môn chuẩn bị tham gia thi đấu các giải toàn quốc trong tháng 3/2019.
Hoàn thành tốt công tác phối hợp đón và đưa đoàn Giải đua xe đạp Nữ Quốc tế
Bình Dương mở rộng lần thứ IX năm 2019 – Cúp Biwase. Tham dự 01 giải thể thao quốc gia và 01 giải khu vực mở rộng; đạt 01 HCV, 01 HCB, 02 HCĐ. Tham dự Giải Vô
địch Điền kinh Trẻ Đông Nam Á lần thứ 14 – năm 2019 tại Philippines; đạt 01
HCV, 01 HCB, 03 HCĐ.
4.
Tình hình dịch, ngộ độc thực phẩm
Ước quý I/2019, có
518 trường hợp mắc bênḥ Sốt xuất huyết, tăng 7,7 lần so với cùng kỳ ( tăng
67 trường hợp); có 38 trường hợp mắc bệnḥ Tay chân miêng̣, tăng 2,4 lần so
với cùng kỳ (tăng 16 trường hợp). Chưa phát hiện trường hợp mắc các loại Cúm
A, bệnh do vi rút Zika trên địa bàn tỉnh.
Phòng chống Sốt rét: Ước quý I/2019, số bệnh nhân sốt rét là 12 trường hợp, tăng 03 trường hợp;
ký sinh trùng sốt rét (+) 11 trường hợp, tăng 02 trường hợp so với cùng kỳ.
Phòng chống Lao: Ước quý I/2019, bệnh nhân lao thu dung là 159 trường hợp, giảm 6,5%; tổng
số bệnh nhân quản lý điều trị là 573 trường hợp, tăng 6,3%; số bệnh nhân M(+) mới
trị lành 85 trường hợp, giảm 3,4%.
Phòng chống Phong: tổng số bệnh nhân Phong đang quản lý là 194 trường hợp, giảm 02 trường hợp;
số bệnh nhân đa hóa trị liệu 03, giảm 25%; số bệnh nhân được chăm sóc tàn tật
34, tăng 9,7%.
Ước quý I/2019 có 1.101 trẻ được tiêm chủng, đạt
9,5% kế hoạch (Tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ cho trẻ em dưới 1 tuổi giảm là do tình
hình thiếu vắc xin trong Dự án Tiêm chủng mở rộng, trong tháng 01/2019 tỉnh
Ninh Thuận chỉ được cấp 6.200 liều vắc
xin DPT-VGB-Hib (ComBE Five), số liều vắc xin còn thiếu so với nhu cầu là
14.300 liều); tiêm UV2 cho 884 phụ nữ có thai, đạt 9,1%.
Tính từ 1995 đến nay, toàn tỉnh có 500 trường hợp
nhiễm HIV (nam 347, nữ 153), chuyển sang AIDS 366 trường hợp, tử vong do
HIV/AIDS 197 trường hợp. Số người nhiễm HIV hiện còn sống là 303 người (trong
đó có 169 trường hợp chuyển sang AIDS). Tỷ lệ hiện nhiễm HIV/AIDS cộng đồng là
0,05%.
Tổ chức 74 đoàn thanh tra, kiểm tra liên ngành về
ATTP trong dịp Tết Nguyên đán (01 đoàn do Sở Y tế chủ trì phối hợp với các Sở,
ngành, 08 đoàn của tuyến huyện, thành phố, 65 đoàn của tuyến xã, phường, thị trấn).
Kết quả thanh tra 2.199 cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm có 1.967cơ
sở đạt vệ sinh an toàn thực phẩm chiếm 89,4% và 232 cơ sở không đạt chiếm 10,6%. Test nhanh 552 mẫu thực phẩm, kết quả có 549/552 mẫu âm tính
(99,5%); 03 mẫu dương tính (01 hàn the trong tàu hủ ki và 02 độ ôi khét trong dầu).
Nhắc nhở 232 cơ sở (tỉnh: 02 cơ sở, huyện, thành
phố: 49 cơ sở; xã, phường, thị trấn: 181 cơ sở) do vệ sinh cơ sở chưa sạch sẽ,
trang thiết bị dụng cụ chưa đảm bảo ATTP, kinh doanh hàng hóa hết hạn sử dụng, dương tính hàn the và
độ ôi khét dầu ăn với số lượng ít.
5. Tình hình cháy, nổ
Trong tháng 3 năm
2019 không xảy ra cháy, nổ. Tính chung quí I năm 2019 xảy ra 03 vụ cháy, giảm
02 vụ so cùng kỳ, không thiệt hại về người, tài sản thiệt hại 2.136 triệu đồng.
Phát hiện kịp thời 04 vụ
và xử lý 07 đối tượng đốt pháo nổ (tại các phường Tấn Tài, Thanh Sơn, Mỹ Bình
thuộc thành phố Phan Rang-Tháp Chàm) vào đêm 30 Tết. Cơ quan chức năng đã kịp
thời xử lý theo quy định.
6. An toàn giao thông (Số liệu tính từ ngày
16 tháng 02 năm 2019 đến ngày 15 tháng 3 năm 2019)
- TNGT đường bộ: Xảy ra
02 vụ ( nghiêm trọng 02 vụ); làm chết 02 người; bị thương 01 người; thiệt hại
tài sản khoảng 07 triệu đồng. So với tháng 02/2019: Số vụ giảm 06 vụ; số người
chết giảm 05 người (-71,43%); số người bị thương giảm 06 người (-85,71%); thiệt
hại tài sản giảm 73 triệu đồng (-91,25%). So với tháng 3/2018: Số vụ giảm 07 vụ
(-77,78%); số người chết giảm 06 người (-75%); số người bị thương giảm 02 người
(-66,67%); thiệt hại tài sản giảm 26 triệu đồng (+900%).
- VCGT đường bộ: Xảy ra
04 vụ; làm bị thương nhẹ 04 người; thiệt hại tài sản 2,5 triệu đồng. So với
tháng 02/2019: Số vụ tăng 01 vụ (+33,33%); Số người bị thương giảm 01 người
(-20%); thiệt hại tài sản giảm 1,5 triệu (-37,5%). So với tháng 3/2018: Số vụ
giảm 03 vụ (-42,86%); số người bị thương giảm 06 người (-60%); thiệt hại tài
sản giảm 13,2 triệu đồng (-84,07%).
- TNGT và VCGT đường
sắt, đường thủy: Không xảy ra. So với tháng 02/2019 và tháng 3/2018: Không
tăng, không giảm.
Tính chung 03 tháng năm 2019 (từ ngày 16/12/2018
đến ngày 15/3/2019) trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận xảy ra 30 vụ tai nạn giao thông,
làm chết 13 người, bị thương 36 người. So với cùng kỳ năm trước, giảm 3 tiêu
chí, số vụ giảm 35 vụ, số người chết giảm 07 người, số người bị thương giảm 41
người.
Tóm lại: Phát
huy những kết quả đạt được trong năm 2018, tình hình kinh
tế - xã hội quí I năm 2019 trên địa bàn tỉnh mặc dù trong bối cảnh có không ít khó
khăn, sản xuất công nghiệp không được thuận lợi, một số sản phẩm chủ yếu đạt
thấp so với cùng kỳ,..nhưng nhiều lĩnh vực vẫn đạt được một số kết quả nhất
định. Sản xuất nông nghiệp, thủy sản trong điều kiện thời tiết có nhiều thuận
lợi, xây dựng, dịch vụ tăng trưởng khá so cùng kỳ; Các chủ trương, giải pháp
chỉ đạo điều hành của Chính phủ về ưu tiên kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế
vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp được tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, kịp
thời và đạt một số kết quả bước đầu.Trong lĩnh vực xã hội có nhiều tiến bộ, các
chính sách an sinh xã hội được triển khai đầy đủ kịp thời, đúng đối tượng, công
tác chăm lo cho các hộ nghèo và các đối tượng chính sách trong dịp tết Nguyên
đán được quan tâm thực hiện tốt hơn, qui mô giáo dục được duy trì và chất lượng
giáo dục được nâng lên; công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được đảm bảo, vệ
sinh an toàn thực phẩm được tăng cường; an ninh, chính trị được giữ vững./.